1. Tố tụng là gì? Tố tụng tiếng Anh là Procedural. Tố tụng là một bộ phận trong pháp luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến trình tự, thủ tục trang tụng như: các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng hành
2. Bà này ông kia ăn chay , niệm phật , tụng kinh , đi chùa mà cứ chửi mắng người khác , tu vậy thì tu làm gì ? - Thấy như vậy ta nên khuyên bảo hơn là thừa cơ chỉ trích , bản thân mỗi người làm sao tránh khỏi những cơn nóng giận bất chợt ?
Tụng là đọc, tụng. Trì là hành trì. Kinh là lời Phật dạy được khẩu truyền, sau lưu lại thành văn bản (lưu ý tam sao thất bổn). TỤNG KINH là đọc, tụng Kinh văn nhằm để hiểu thấu đáo lời Phật
Nghe mp3 vấn đáp Phật Thừa là gì? do ĐĐ. Thích Pháp Hòa giảng. Kho ảnh đẹp - Ảnh Phật - Mp3 thuyết pháp. Menu. Hình Ảnh Đẹp 6 Kinh Tụng Mp3 105 Nhạc Thiền 26 Thích Bửu Chánh 204 Thích Chân Tính 174 Thích Đồng Thành 89 Thích Giác Đăng 59 Thích Giác Hạnh 128 Thích Giác Hóa
Nhiều Phật tử Đại thừa, đặc trưng là người Trung Quốc, thường xuyên nguyện cầu và niệm thần chú Phật Di Lặc để mang lại may mắn, giàu có và hạnh phúc trong cuộc sống. Những lợi ích của việc trì tụng thần chú Di Lặc là: - Đầu thai ở thiên đường Tusita, một
Bài viết này sẽ giúp bạn giải đáp Om Mani Padme Hum là gì và ý nghĩa. Chuyển đến nội dung. 0. Hiện nay, ngoài việc trì tụng câu chú Án Ma Ni Bát Mê Hồng thì trên thị trường cũng có những món trang sức phong thủy, trang sức tâm linh có khắc câu chú này.
Khi trì tụng Chú Dược Sư, quý vị sẽ được ánh sáng trí tuệ trong suốt như ngọc lưu ly của Ngài soi chiếu. Lúc đó, quý vị sẽ mở rộng tấm lòng, không còn những tham sân si vô độ, đồng thời sẽ phát khởi lòng từ bi, yêu mến hết thảy mọi người mọi việc dù là tốt hay bất lợi cho bản thân quý vị.
2DS5Vp8. HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI 11 BÀI KINH HỘ TRÌ - PARITTA SUTTA"Cùng Tam Qui và Ngũ Giới mọi Phật tử phải học thuộc lòng bằng tiếng Pali Chịu khó học từ từ mỗi ngày một vài câu, và áp dụng thực hành vào đời sống, sau một vài năm sẽ thấy khác hẳn so với những người không học đều, thực hành đều chánh kiến, tín tâm, chánh tinh tấn, chánh niệm tăng trưởng, sẽ bớt dần đi tham sân si và sẽ an nhiên tự tại dần từng bước trước vui buồn của cuộc trọng cốt tủy của thành công là đều đặn học tập và thực hành hàng ngày, chứ không chỉ chờ tới khóa học, khóa cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho đạo hữu cùng tất cả mọi người trong gia đình luôn được khỏe mạnh, thành công, an vui, và hạnh phúc, luôn tinh tấn làm lành, lánh dữ, thanh lọc tâm, vun bồi phước thiện tạo duyên lành giúp sớm giác ngộ, giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự - Niết bàn. Trong tâm từ, Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala-🍀 11 Bài kinh Hộ Trì Parittapāli được lần lượt được đọc tụng bởi Thiền sư Chủ trì Thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery Yangon Myanmar - Ngài Sayadaw U Dammikabhivamsa, và được phân tích từ ngữ và ý nghĩa của từng câu Pāli bởi Sumangala Bhikkhu Viên Phúc dựa theo tài liệu soạn dịch bởi Tỳ Khưu Đức Hiền, NXB Tôn giáo 2011 "Kinh Hộ Trì - Phân tích từ ngữ Pali"PDF - - BÀI HƯỚNG DẪN "TỰ HỌC TỤNG NIỆM VÀ GIẢI NGHĨA PĀLI" có tại các links dưới đây 🎯 YOUTUBE PLAYLIST AUDIO MP3 & YOUTUBE CHO TỪNG NGÀY❶ CHỦ NHẬT PARITTA- PARIKAMMA – BỐ CÁO KINH HỘ TRÌMAṄGALA SUTTA – KINH HẠNH PHÚCMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 1 – 6 Câu 7 – 9 Câu 10 – 11 Câu 12 – 13 Câu 14 – 16 Câu 17 - 19 Câu 20 – 24 THỨ HAI RATANA SUTTA – KINH CHÂU BÁUMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 25 Câu 26 – 29 Câu 30 – 32 Câu 33 – 35 Câu 36 – 39 Câu 40 – 45 THỨ BA METTA SUTTA – KINH TỪ BIMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 46 – 49 Câu 50 – 53 Câu 54 – 57 THỨ TƯ KHANDHA SUTTA – KINH KHANDHA MORA SUTTA – KINH CON CÔNG VATTA SUTTA – KINH CHIM CÚTMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 58 – 65 Câu 66 – 71 Câu 72 – 77 Câu 66 05-06 Mora-Vattasutta THỨ NĂM DHAJAGGA SUTTA – KINH NGỌN CỜMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 78 – 81 Câu 82 – 86 Câu 87 – 96 Câu 97 – 101 THỨ SÁU ĀṬĀNĀṬIYA SUTTA – KINH ĀṬĀNĀṬIYAMP3 Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 102 – 107 Câu 108 – 113 Câu 114 – 117 Câu 118 – 125 Câu 126 – 131 THỨ BẢY AṄGULIMĀLA SUTTA – KINH NGÀI AṄGULIMĀLA BOJJHAṄGA SUTTA – KINH GIÁC CHI PUBBAṆHA SUTTA – KINH BUỔI SÁNGMP3 YOUTUBE Sayadaw Tharmanaykyaw Câu 132 – 134 Câu 135 – 137 Câu 138 – 140 Câu 141 – 145 Câu 146 Câu 146 – 152 Câu 153 – 158 Câu 159 – 164 Bản tụng đọc Pali 11 bài kinh hộ trì paritta xem tại bên dưới bài viết này và tại link này khảo đọc Pali 11 bài kinh hộ trì parittaNgài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Paauk Sayadaw Đại Trưởng Lão Thiền Sư Sīlānanda Sayadaw 🍀 MƯỜI MỘT MAHA PARITTA SUTTA-Những bài kệ bảo hộ của Đạo Phật trong phương thức truyền miệng được gọi là Gatha Kệ hay Mantra chú, sự tụng niệm mantra được tin rằng sẽ đem lại kết quả mong muốn nhờ phát triển sự bảo hộ hiệu quả hoặc bằng cách thúc bách sự trợ giúp của các thánh thần siêu Paritta hay Rakkhana là những bài nguyện nguyên thuỷ cầu sự thịnh vượng, an lành và hạnh phúc của tín đồ Phật giáo ở Miến Điện, nhưng dần dần các Paritta Gatha trở thành thần chú của Phật là một thuật ngữ kỹ thuật bắt nguồn từ gốc TA - RAKKHATTI có nghĩa là sự cứu hộ, bảo vệ hay canh chừng; với tiếp đầu ngữ PARI - toàn khắp SAMANTATO, có nghĩa từ mọi hướng. Do đó, các Paritta có thể được diễn giải là những chú bảo hộ của Phật giáo hoặc Mantra Raksha của Phật có nghĩa là lớn, cao, vĩ đại, hùng mạnh, và dồi dào. Do đó tuyển tập vĩ đại gồm những thần chú Phật giáo ở Miến Điện thường được gọi là MAHA PARITTA SUTTA Đại hộ trì kinh.Trong các loại Kinh bảo hộ, quan trọng nhất là tuyển tập mười một Hộ Trì Kinh Paritta Sutta. Những Paritta Sutta này được tụng niệm một mình hoặc tập thể nhiều người. Một số hoặc tất cả những Kinh sutta này được tụng niệm như một phần của những nguyện cầu thông thường của Phật tử, nhằm chống lại những hiểm nguy và tai hoạ, dù chúng tự nhiên hay siêu nhiên. Phòng tránh những biến cố không hay đang diễn ra và vô hiệu hoá các rủi ro từng xảy ra là hai mục đích chính của việc tụng niệm trong những dịp đặc điều quan trọng cần phải lưu ý là mỗi Paritta Sutta có một chức năng đặc trưng, mặc dù bất cứ paritta nào cũng có thể được tụng niệm như một biện pháp bảo hộ thông thường. Do đó, ví dụ như Angulimala paritta được tụng trong trường hợp sinh khó; Khandha paritta đề phòng việc rắn cắn và nhiễm độc; Vatta paritta nhằm dập tắt ngọn lửa hung dữ; Mora paritta nhằm giải thoát một người khỏi ngục tù; Bojjhanga paritta nhằm chữa trị các bệnh nhân bị bệnh nguy kịch vv..Tất cả mười một Paritta Sutta được quy định trong chương trình tu học Truyền thống Miến Điện và những học giả trẻ, những người mới nhập đạo, người mới tu và những người trợ lễ Kyaungtha, Pothudaw, Koyin và Upazin được rèn luyện để ghi nhớ chúng một cách trực tiếp từ nguyên bản Pali. Tất cả những bản văn này được chuyển dịch sang ngôn ngữ bản địa Miến Điện, và mỗi người Miến Điện trưởng thành được coi như đã hiểu tất cả hoặc một số Kinh này khi các nhà tu lớn tuổi tụng niệm chúng bằng tiếng Pali nhân danh những gia chủ trong các buổi lễ của làng. Những thực hành tôn giáo này vẫn còn hợp thời trong xã hội Phật giáo Miến Điện hiện Phật tử Miến Điện tỏ lòng tôn kính mười một Mahaparitta Sutta này y như họ tôn kính Tam Tạng Kinh Tipitaka Pali. Mặc dù sau này có nhiều sự dẫn giải và thêm thắt trong việc soạn thảo Paritta bởi những bậc hiền triết uyên bác thời xưa, tất cả những Sutta này đều chủ yếu được đặt nền trên những kinh Kinh Hạnh Phúc Mangala sutta đặt nền trên Tiểu bộ tập Khudda- kapatha và các bản văn Kinh tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ kinh Khuddaka nikaya.⒉ Kinh Châu Báu Ratana sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập Khudda- kapatha và bản văn Kinh Tập Sutta- nipata trong Tiểu bộ Kinh Từ Bi Metta sutta đặt nền trên Tiểu Bộ Tập và bản văn Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh Ngũ Uẩn Khandha sutta được dựa trên Tiểu phẩm thuộc Luật Tạng Vinaya pitaka Culavagga, những bản văn Bổn sanh truyện Jataka và TăngChi Bộ Kinh Anguttaranikaya.⒌ Khổng Tước Kinh Mora sutta dựa trên Bổn sanh truyện trong Tiểu Bộ Luân Hồi Kinh Vatta sutta dựa trên Bổn sanh truyện và sở Hành Tạng Cariyapitaka trong Tiểu Bộ Kinh Ngọn Cờ Dhajagga sutta dựa trên Tương Ưng Bộ Kinh Samyutta nikaya, bản văn Tương Ưng Sakka Sakka Samyutha.⒏ Kinh Atanatiya sutta dựa trên bản văn Pathikavagga thuộc Trường Bộ Kinh Digha- nikaya- Pathikavagga và bản văn Kinh Pháp Cú trong Tiểu Bộ Angulimala sutta, Vô Não Kinh dựa trên bản văn Majjhimapannasa trong Trung Bộ Kinh Majjhima nikaya- Majjhimapannasa.10. Kinh Thất Giác Chi Bojjhanga sutta dựa trên bản Tương Ưng Kinh - Đại Phẩm Samyutha nikaya - Mahavagga Samyutta. buổi sáng tốt lành Pubbanha sutta dựa trên Tiểu Bộ Tập Khuddaka patha, bản văn kinh tập Sutta- nipata trong các bản Tiểu Bộ Kinh Khuddaka nikaya và Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara nikaya.[Trích Cẩm Nang tụng niệm của Phật tử Miến Điện]- 🍀 NGHE VÀ TỤNG KINH HỘ TRÌ PARITTA NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG CÁCH ?-Kinh Hộ Trì Parittapāḷi là Kinh bảo vệ và mang lại những kết quả tốt đẹp. Điều quan trọng là những bài Kinh này được tụng đọc hay lắng nghe một cách đúng đắn. Có một vài điều kiện để thành tựu cả việc tụng đọc và lắng nghe nhằm mang lại những lợi ích của Kinh Paritta. Thật vậy, về người tụng đọc cần phải đầy đủ ba điều kiện và về người lắng nghe cũng có ba điều kiện sauI. Ba điều kiện cho người tụng đọc là1. Họ phải được học và tụng đọc những bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi này một cách chính xác và đầy đủ mà không bỏ Họ phải hiểu được ý nghĩa của các bài Kinh Hộ Trì Parittapāḷi khi được tụng Họ phải tụng đọc với tất cả trái tim đầy hoan hỷ và với từ Ba điều kiện cho người lắng nghe Kinh là1. Là người không phạm một trong năm trọng tội - Giết mẹ Mātughātaka; - Giết cha Pitughātaka; - Giết bậc A-la-hán Arahantaghātaka, - Làm chảy máu Phật Lohituppādaka. - Và chia rẽ Tăng chúng Saṅghabhedaka.2. Là người không có “Tà Kiến - Micchādiṭṭhi" như việc không tin Nghiệp Kamma và Nghiệp quả Kammavipāka.3. Là người lắng nghe những bài Kinh bằng sự tự tin ở kết quả từ việc nghe Kinh, thì sẽ tránh khỏi các sự nguy hiểm và mang lại kết quả khi những điều kiện này được đầy đủ, thì người này mới thành tựu những lợi ích của Kinh vậy, điều quan trọng là khi Kinh Paritta được tụng đọc và mọi người nên lắng nghe với niềm tin, sự kính trọng và bằng sự chú nữa, việc tụng Kinh Paritta được phát sinh 2 lợi ai tụng đọc như những người cho một cái gì đó; và những người lắng nghe giống như những người tiếp nhận một điều gì đó đã được họ không nhận lĩnh những gì đã được cho thì họ không nhận được gì. Nói rõ hơn, nếu người nào không lắng nghe việc tụng đọc, mặc cho những người khác tụng lên và người này làm các việc khác; thì họ chắc chắn không nhận những gì đã được cho, do vậy họ sẽ không thành tựu được từ những lợi ích của việc nghe kinh......“Này các Tỳ khưu, hãy học Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy học thuộc lòng Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Hãy nắm giữ Hộ Kinh Āṭānāṭiya! Này các Tỳ khưu, liên quan đến lợi ích là Hộ Kinh Āṭānāṭiya cho các vị Tỳ khưu, các Tỳ khưu ni, các cận sự nam và các cận sự nữ được bảo vệ, được hộ trì, không có bị xâm hại, được sống an vui”.Majjhimanikāya, Pāthikavaggapāḷi, bài kinh số 9, trang Myanmar 173.From FB Chánh pháp Hà nội- 🍀 103. PHẢI CHĂNG TỤNG KINH PARITTA THẬT KHÔNG CÓ LỢI ÍCH? Mi Tiên Vấn Đáp Đức Thế Tôn có dạy rằng "Dù trong động thẳm hang sâu, trong những bảo điện kiên cố với tường sắt vây quanh, giữa hư không bao la, sâu thẳm, giữa đáy đại dương hoặc trong lòng muôn trượng của quả đất - chẳng có nơi nào thoát khỏi lưỡi hái của tử thần!". Điều ấy là chân lý chắc thật phải không đại đức?- Chẳng có lời nào của Đức Đại Giác là không hợp với chân lý, với sự thật!- Nếu là vậy thì tại sao Đức Tôn Sư lại nói rằng, người nào tụng kinh hộ trì an lành kinh Paritta thì sẽ thoát khỏi uy lực của tử thần? Rõ ràng là lời thuyết này đâm xóc lời thuyết kia? Rõ ràng là lời thuyết sau phá vỡ chân lý của lời thuyết trước? Và, chẳng lẽ nào Đức Đại Giác lại nói ra hai lời nghịch nghĩa như mâu với thuẫn, như nước với lửa, như sáng với tối như thế? Đại đức phải có bổn phận và trách nhiệm phá nghi cho người học Phật thời hậu lai và chống đỡ búa rìu của phường ngoại giáo nhiều môi lắm mép!- Dĩ nhiên là phải thế, tâu đại vương! Và dĩ nhiên là Đức Đại Giác chẳng bao giờ nói hai lời nghịch nghĩa! Sở dĩ có sự hiểu lầm là vì người ta chưa hiểu năng lực của kinh hộ trì an lành đó thôi!- Xin đại đức giảng cho nghe về năng lực Thưa vâng, đại vương, ngài nghĩ thế nào, ví như có một cái cây già cỗi đã nhiều năm, ruột bộng, bên trong hoàn toàn khô kiệt nhựa và mủ; nghĩa là cái cây ấy không còn sự sống, nó đã chết, đã chấm dứt tuổi thọ. Có người khởi lên vọng tưởng muốn cho cây được sống lại, được đâm chồi nẩy lộc; bèn tưới nước, thêm phân; ngày nào cũng siêng năng tưới tắm, bảo vệ, giữ gìn ... những mong cái cây ấy được sống lại! Đại vương nghĩ thế nào, với nỗ lực của người ấy, chăm chuyên tưới nước, săn sóc nó từ ngày này sang ngày nọ - cái cây chết khô kia có vì vậy mà nẩy tược, đâm chồi, mọc lá xanh tươi trở lại hay không?- Thưa, thật là việc làm vô ích của người ngu; cây đã chết rồi, đã chấm dứt tuổi thọ rồi thì chẳng có năng lực gì, nỗ lực nào làm cho sống lại được!- Cũng tương tự như thế đó, tau đại vương! Một người khi mà thân xác khô kiệt, tim đã ngừng đập, máu không còn chảy nữa, sự sống đã lìa khỏi thân xác, tuổi thọ đã cáo chung; thì dù tụng kinh với nhiều oai lực như kinh hộ trì an lành Paritta, tụng năm biến, ngàn biến, hay tụng cả bỏ ngủ quên ăn, không vì vậy mà người kia sống lại được, tâu đại vương! Khi mà tử thần đã khua lưỡi hái cướp đi sanh mạng của chúng sanh rồi thì chẳng còn uy lực nào chống đỡ hoặc ngăn cản được đội binh sấm sét và bất khả chiến bại của thần chết, tâu đại vương!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Thế là đại đức đã đồng ý với trẫm, là tụng kinh Paritta thật vô ích, kinh Paritta ấy chẳng thể nào ngăn cản uy lực của tử thần được!- Đúng thế, nhưng mà đại vương hãy nhẫn nại thêm một tí Thưa vâng,- Đại vương! Ví như có một bệnh nhân thọ bệnh trầm kha, cả lục phủ ngũ tạng đều nát bét, tim và mật đều không còn làm việc. Có một vị lương y đại tài với quyết tâm chữa trị cho bằng được, bao nhiêu thuốc thang, kinh nghiệm, phương dược bí truyền đều mang ra hết. Đại vương nghĩ thế nào, người kia có chút may nào sống lại chăng?- Bệnh nhân ấy chuẩn bị quan tài là vừa, thưa đại đức!- Đúng thế, khi sự sống đã rời khỏi thân, khi thọ mạng đã bước ra khỏi cửa - thì việc làm của vị lương y trứ danh kia chẳng khác việc làm của người điên! Lúc ấy, diêm chúa và tử thần ái ngại nhìn vị lương y rồi nói rằng "Sanh mạng của người kia đã ở trong tay chúng ta rồi, ngươi muốn tụng kinh Paritta để hộ trì an lành và thọ mạng cho y thì chẳng khác nào phỉ báng Đức Phật và phỉ báng cả kinh Paritta!".- Hay lắm! dí dỏm lắm! Thế là thêm một lần nữa, đại đức đã đồng ý với Là vậy mà không là vậy, tâu đại vương! Xin ngài hãy nhẫn nại cho một tí nữa!- Xin sẵn lòng!Nghỉ hơi một lát, đại đức Na-tiên nói tiếp- Đại vương, ví như người điền chủ kia có một đám ruộng xanh tốt, đến thời, hạt lúa vàng nặng trĩu đầy cành. Nhưng vì tâm tham, người điền chủ muốn năng suất lúa phải bội thu hơn nữa, nên ngày nào y cũng thêm nước, rải phân! Đại vương nghĩ thế nào, với việc làm của người điền chủ, có vì thế mà hạt lúa nảy sanh thêm được chăng?- Thật không Cũng dường thế ấy, đại vương! Cây lúa già hạt trĩu đầy cành, vàng óng, là báo hiệu cây lúa sắp chết. Con người khi mà thân xác đã già, thọ mạng sắp ngưng dứt thì dẫu có thêm nước thêm phân, tụng kinh Paritta thảy đều vô ích, thọ mạng của người ấy không thể kéo dài ra, phát triển thêm được Trẫm hoàn toàn đồng Trở lại với các trường hợp trên thử xem. Ví dụ là cái cây cằn cỗi do thiếu phân, thiếu nước; nghĩa là tuổi thọ chưa chấm dứt, sự sống hãy còn; nếu ta chăm bón và nước nôi đầy đủ thì cái cây kia chắc hẳn là phải xanh tươi, phát triển cành lá sum suê chứ, đại vương?- Đích Cũng vậy là một người sanh mạng chưa chấm dứt, sự sống vẫn còn, nhưng do tiều tụy héo mòn bởi phiền não, bởi nhiều sự tai hại, não hại mà ảnh hưởng đến thân và tâm. Nếu kẻ ấy không có đức tin, hoàn toàn đổ sụp tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng - thì tử thần có dễ dàng lê bánh xe của thần chết đến để nghiền nát sinh mệnh của người kia không, hở đại vương?- Chắc chắn là vậy rồi!- Nhưng trái lại, nếu người ấy có quy y, tinh thần được khởi động để có niềm tin nơi Tam bảo, tin vào oai lực kinh Paritta có thể ngăn ngừa được thần chết, nên không mỏi mệt tụng kinh Paritta - thì thần chết có làm được gì kẻ kia không, nếu thọ mạng và sự sống ông ta hãy còn?- Lúc ấy thì có thể thoát khỏi lưỡi hái của diêm Thế kinh Paritta lúc ấy có thật sự lợi ích không hở đại vương!- Thật sự có lợi ích!- Đại vương, thế là đến ngang đây, đại vương đã tự bác bỏ câu phát ngôn đầu tiên của mình rồi!Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu- Có thể có một chút gì đó khá đúng. Nhưng ngài có thể cho nhiều ví dụ nữa để trẫm tiếp tục suy gẫm xem?- Vâng! Nếu có người bệnh, bệnh không nặng lắm - nếu uống đúng thuốc, đúng liều lượng, biết kiêng cử thì bệnh sẽ lành chứ, đại vương?- Vâng,- Và khi ấy, thuốc ấy thật sự lợi ích chứ?- Vâng!- Một người khi có bệnh chút ít, tuổi thọ chưa chấm dứt, nếu người ấy có quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc mà tụng kinh Paritta - thì có ngăn được tử thần không, đại vương?- Có thể được! Vì có lòng tin nên kinh Paritta sẽ phát sanh năng lực!- Thế là đại vương đã cùng chấp nhận quan điểm, là tụng kinh Paritta phát sanh năng lực rồi!- Vâng, trẫm chấp nhận! Thế thì kinh Paritta chỉ hộ trì được những người có đức tin, những người thọ mạng chưa chấm dứt mà thôi, phải thế?- Thật là chính xác, tâu đại vương! Cho nên kinh Paritta có nghĩa là "kinh hộ trì an lành"! Hộ trì nghĩa là bảo vệ, che chở! Bảo vệ và che chở những người có đức tin, những người còn thọ mạng, nên ngăn chặn được tử thần không cho đến sớm! Chứ không phải kinh Paritta có năng lực bảo vệ và che chở những người không có đức tin, những người thọ mạng đã chấm dứt, tâu đại vương!- Bây giờ thì trẫm hoàn toàn hiểu rồi!- Đại vương, quả thật vậy, những người có đức tin nơi Tam bảo, có đức tin vào năng lực kinh Paritta, tin về những đức lành của kinh Paritta; dốc lòng trì tụng kinh Paritta thì có thể tiêu trừ tất cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn; lại có công năng hộ trì an lành, ngăn ngừa được lưỡi hái của tử thần là điều chắc thật!- Đại đức có bằng cớ chăng?- Thưa, có. Tại thành Vesàli, đại đức Ànanda đã tụng kinh Paritta, cả đêm, trọn ba vòng thành; tất cả chư thiên trong nhiều cõi giới ta bà đều hoan hỷ, và sau đó tất cả sự kinh sợ như bệnh dịch, phi nhơn và sự đói khát của nhân dân trong thành Vesàli đều được tai qua nạn khỏi!- Trẫm cũng có đọc qua đoạn kinh ấy, sau đó, dường như có một trận mưa lớn nên nhân dân thoát khỏi nạn dịch hoành hành, nhờ mưa lớn nên mùa màng ruộng vườn tránh khỏi cái khô hạn! Hết dịch, hết đói cũng vì thế. Còn nhờ sao mà phi nhơn hết quấy phá nữa thì trẫm không Chính nhờ sự mát mẻ, an lành từ oai lực kinh Paritta nên các trạng thái tâm nóng nảy, hung dữ ... lắng dịu lại, tâu đại vương!- Rất là chí lý. Nhưng oai lực kinh Paritta còn diệu dụng nào kỳ lạ nữa chăng?- Vâng, có, tâu đại vương! Các vị Thánh Tăng, Cao Tăng thường truyền tụng rằng, nếu chuyên trì tụng kinh Paritta thì rắn độc phải lặng lẽ cúi đầu bỏ đi, không dám có ý định cắn mổ nữa. Kẻ trộm vừa giơ gậy muốn đánh, nghe kinh Paritta, phải dịu dàng bỏ thỏng tay xuống. Voi số mạch nổi cơn dục rất hung dữ, chạy đến muốn chà đạp người, nghe kinh Paritta, chúng sững lại, hiền lành ngoan ngoãn bỏ đi. Dùng lửa cháy cực mạnh đốt người - đang trì tụng kinh Paritta, lửa ấy không hại người ấy được. Dùng thuốc độc cũng không hại người tụng kinh Paritta . Thật lạ lùng làm sao!- Chưa đâu đại vương! Lại có trường hợp một con công quyết tâm tụng kinh Paritta để tự bảo vệ mình, có người thợ săn kiên trì đơm bẫy tới bao nhiêu năm cũng không bắt được. Đến khi con công ấy sầu muộn vì luyến ái một con công mái mà quên không tụng kinh Paritta, trong một ngày thôi thì đã bị dính bẫy người thợ Trẫm cũng có biết câu chuyện ấy, nói tóm lại là kinh Paritta có năng lực bảo vệ, hộ trì; nhưng trẫm thắc mắc là kinh ấy bảo vệ, hộ trì cho tất cả chúng sanh, tất cả mọi người hay cho một loài, một nhóm, một số người nào đó thôi?- Không thể hộ trì cho tất cả Tại sao thế, đại đức?- Đại vương, ngài nghĩ thế nào, vật thực có hộ trì cho sanh mạng tất cả chúng sanh chăng?- Thưa, có người hộ trì được, có người không Tại sao lại như vậy?- Ví như có người ăn vật thực quá độ, chất lửa trong bao tử không thể tiêu hóa được, sẽ đầy hơi tức bụng mà chết. Trường hợp ấy gọi là vật thực không thể hộ đức Na-tiên hỏi lại- Thế thì vật thực không thể hộ trì sanh mạng chúng sanh chỉ có hai nguyên nhânThứ nhất, thọ dụng vật thực quá hai, do chất lửa trong bao tử non nên không tiêu hóa vật thực Đúng như thế, thưa đại đức!- Vật thực vốn là món nuôi sanh mạng chúng sanh, nhưng bởi lẽ chúng sanh tham ăn tham uống quá độ, không biết thọ dụng chừng mực, vừa phải - nên nó trở thành thủ phạm giết hại sanh mạng chúng sanh, phải vậy không đại vương?- Thật là chính xác!- Kinh Paritta cũng như vật thực vậy, tâu đại vương! Kinh Paritta có người hộ trì được, có người không! Những người mà kinh Paritta không thể hộ trì được có ba lý do sauMột là, do năng lực nghiệp ác cản là, do nhiều phiền não phát sanh ở trong là, do người đọc tụng mà không có đức tin, không trì chí, không quyết tâm, chỉ tụng đọc vẹt nơi miệng!Đấy là ba cản trở lớn làm cho Paritta không thành tựu, tâu đại vương!- Như vậy là do chính lỗi lầm, sái quấy của người tụng đọc chứ không phải do kinh Paritta!- Đúng thế, tâu đại vương! Vật thực cũng như kinh, vốn không có tội Đại đức có khả năng cho ví dụ về điều ấy không?- Thưa được! Ví như có bà mẹ sanh đứa con một, biết bao công lao ẵm bồng, bú mớm, dọn phân, dọn nước tiểu. Lớn hơn chút nữa, lại phải áo quần, trang điểm, giáo dưỡng, dạy bảo nhiều bề. Tuy nhiên, giả dụ như sau này đứa con sinh hư, phạm tội với luật pháp. Người mẹ đau khổ, tìm cách đến công đường cố xin ân xá tội cho con! Tâu đại vương, nếu là đại vương thì đại vương có xá tội cho người con ấy không?- Người mẹ ấy cũng đáng thương, nhưng luật pháp nghiêm minh, nếu tha thứ cho một người thì nhân dân sẽ khinh nhờn mà phạm nhiều tội khác Vâng, như thế có nghĩa là ai làm nấy chịu, nghiệp ai kẻ ấy phải thọ quả báo! Người mẹ kia không thể xin tội cho con như thế nào - thì kinh Paritta cũng không thể hộ trì cho những người đã bị ba lý do nêu trên cản ngăn!Đến đây, đức vua hết lòng khen ngợi- Quả là biện tài. Quả là đại đức có khẩu ngôn thiện xảo. Cách trả lời với nhiều ví dụ, so sánh của ngài làm cho càng lúc chính đề càng thêm sáng tỏ. Hoài nghi đã chấm dứt. Mắt mờ đã được sáng. Lưới tà kiến đã được tháo gỡ. Trí tuệ của đại đức thật là siêu việt Không dám! Với những câu hỏi của đại vương, bần tăng cũng toát mồ hôi khi cố đưa ra những kiến giải non nớt, nông cạn, mong đại vương hỷ xả cho!Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười- Không cần thiết phải khiêm tốn như thế, đại đức! Chúng ta đối thoại với nhau, ngay từ đầu đã xác định là cách đối thoại của bậc trí giả mà! Vậy khách sáo với nhau làm Na-tiên cũng mỉm cười ý
Mật Tông là pháp môn đặc sắc được bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa. Mật Tông được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông còn được gọi là Mật giáo, Chân ngôn môn, Kim cương thừa hay Mật thừa… Mật Tông là gì?Sao gọi là Trì ?Sao gọi là Chú ?Trì ChúTụng Chú hoặc Niệm Chú Thần Chú Mật TôngOm Mani Padme Hum – Lục Tự Đại Minh ChúTiểu hiếu hay Đại hiếuThời kỳ Mạt PhápNiệm Phật & Trì ChúTịnh Độ Tông hay Mật Tông?Tu Tịnh Độ & Mật Tông khó hay dễ?Tại sao dễ ?Nhưng tại sao khó ?Mật Tịnh là cùng nguồn gốcHàm ý 2 chữ Mật TịnhTất cả đều do Tâm sinhThay lời kết Phật tử tu Mật tông nên biếtPhải cẩn thận điều nàyĐiều nhiều người không biết Mật tông là một pháp tu bí mật của Phật giáo, dạy về cách “bắt ấn”, “trì chú” Pháp tu nầy có tính chất liễu nghĩa trọn đủ, căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền. Trong các pháp môn mà Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh nương theo tu tập trong thời buổi “Mạt Pháp” sau nầy, hành môn nào cũng đều có một tôn chỉ thù thắng vi diệu. Ví dụ như Bên Tịnh Độ Tông lấy tôn chỉ “Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển” làm tông. Bên Thiền Tông lấy tôn chỉ “Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật” làm tông. Bên Hoa Nghiêm Tông lấy tôn chỉ “Lìa thế gian, nhập pháp giới” làm tông. Bên Pháp Hoa Tông lấy tôn chỉ “Phế huyền, hiển thật” làm tông. Và riêng Bên Mật Tông lấy tôn chỉ “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông Tam mật là Thân mật – Khẩu mật – Ý mật Tóm lại, pháp môn tuy nhiều và tôn chỉ khác nhau, nhưng tựu trung rồi cũng quy về một mục đích duy nhất là giải thoát khỏi sinh tử luân hồi mà thôi. Nay xin nói sơ qua về “Mật Tông”. Gọi là “Mật”, vì đây là một hành môn thuộc về “Bí Mật Pháp Môn”, chuyên dạy về cách trì Chú, bắt Ấn, nên phải có Sư thừa tức người truyền dạy . Sao gọi là Trì ? TRÌ có nghĩa là giữ hoài trì giữ không cho mất, không cho quên. Sao gọi là Chú ? CHÚ nói cho đủ thì là Thần Chú, là lời bí mật. Nay để cho tiện, nên gọi tắt là “Chú”, Có người không hiểu, nói rằng Thần Chú là của Thần đạo thuyết ra. Đó là trật, là sai lầm. Chữ THẦN nơi đây có nghĩa là “thần thông, linh thông, biến hoá”. Chữ CHÚ thì còn được gọi là CHÂN NGÔN. Những câu Thần Chú của chư Phật và Bồ Tát thuyết ra có oai lực và công đức không thể nghĩ bàn. Ta phải nên phân biệt giữa TRÌ Chú và NIỆM Chú. Trì Chú Tức là 1 câu Chú phải được lập đi lập lại liên tục từ vài trăm biến trăm lần trở lên, thì mới được gọi là trì. Còn chỉ đọc 3 câu, 7 câu, thì là niệm, chứ không được gọi là trì. Tụng Chú hoặc Niệm Chú Tức là chỉ lướt qua có một lần mà thôi. Chẳng hạn như “Thập Chú Lăng Nghiêm” sáng được tụng lướt qua có 1 lần thôi, chứ không có tụng lần thứ 2, thứ 3. Thần Chú Mật Tông Thần Chú tiếng Phạn gọi là Dhàrani Đà ra ni, Đà la ni , tiếng Hán dịch là Tổng Trì, tiếng Anh gọi là bao gồm vô lượng pháp, nên gọi là “Tổng”. Vì giữ chứa vô lượng nghĩa, nên gọi là “Trì”. Thần Chú mang ý nghĩa bao trùm tổng tất cả Pháp, gìn giữ trì tư tưởng cao thượng từ vô lượng diệu nghĩa của nội tâm. Câu “Thần Chú” là cả một “Tâm Ý” của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng sinh. Ý nghĩa của Thần Chú thì cực kỳ bí mật, không ai hiểu được, ngoại trừ bổn tôn vị chủ của Thần Chú đó và chư Phật mới biết được mà thôi. Chú đại bi tâm Đà la ni Đà ra ni Có ba loại à ra ni, đó là Một chữ, nhiều chữ, và không chữ vô tự. Thần Chú của Phật khác với của Tà đạo. Chú của Phật có công năng phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phá được vọng tưởng tà quấy, phát sanh trí huệ, tăng trưởng phước đức căn lành, ngăn trừ tội lỗi, cứu mình độ người thoát khỏi ma nạn, nhất là cứu độ cho vong linh được siêu thoát một cách tuyệt diệu và hy hữu, đưa người từ cõi Phàm đến cõi Thánh nhanh chóng, gần gũi cùng cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát, Thánh Thần và thành tựu được đạo quả. Còn Thần Chú của Tà đạo chỉ làm hại người, hại vật, gieo tai họa cho người, chết phải đọa vào 3 ác đạo. Thần Chú tuy không có thể giải nghĩa ra được, nhưng nếu chí tâm, thành kính thọ trì, thì sẽ được công hiệu kỳ diệu khó thể nghĩ bàn. Cũng giống như người uống nước, cảm giác ấm hay lạnh thì chỉ người đó tự biết – còn người khác thì không cách chi biết được, cũng không hiểu hoặc không tin được. Phần công hiệu của việc trì Chú cũng vậy, chỉ riêng người chuyên trì Chú mới biết rõ nó hiệu nghiệm như thế nào mà thôi ! Thường thì một câu Thần Chú hay thâu gồm hết một bộ Kinh. Vậy cũng đủ hiểu hiệu lực, công đức của câu Thần Chú mà Phật nói ra không thể nghĩ bàn. Thí dụ như 1. Bộ Kinh ĐẠI BÁT NHÃ gồm có 600 quyển, mà chỉ có một câu Thần Chú gom hết 600 cuốn Đại Bát Nhã. Đó là câu Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. 2. Kinh ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI kết lại hết 85 câu Chú Án, tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3. Nguyên cuốn Kinh CHUẨN ĐỀ kết lại câu Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. 4. Kinh LĂNG NGHIÊM gồm có 9 cuốn, kết lại trong câu Án, a na lệ tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha. 5. Kinh PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI thì cũng y như vậy. Lại nữa, phải nên biết Câu CHÂN NGÔN Thần Chú đây thuộc về “bất tư nghì thần lực”. Còn Câu NIỆM PHẬT thì thuộc về “bất tư nghì công đức”. Cả hai, một MẬT, một TỊNH đồng chung nguồn gốc mà sanh ra, đều có năng lực đưa hành giả về nơi Tịnh Độ nói chung và vãng sanh về cõi CỰC LẠC nói riêng, chứ không phải Trì Chú thì không được vãng sanh. Chỉ chuyên Niệm Phật mới được vãng sanh ! Nay Tổ Sư Thích Thiền Tâm đã phối hợp cả hai phần MẬT và TỊNH lại thì sự kiến hiệu càng tăng thêm gấp bội. Cái tâm “lực” đưa tới Cực Lạc sẽ nhanh chóng, an lành không bị trắc trở. Như VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI à ra ni, Tụng một biến thì tất cả các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác thảy đều tiêu diệt. Tụng 3 biến, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Tụng 7 biến thì dù cho hàng thiện nam, tín nữ tại gia phạm giới căn bản, hàng Tăng Ni phạm tội tứ khí, bát khí và các trọng giới khác, đều trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Hành giả khi kết Ấn tụng trì Thần Chú nầy liền được chư PHẬT phóng quang tụ nơi đỉnh đầu và được các Ngài nhiếp thọ. Tụng đến 1 vạn biến lần, tâm Bồ Đề tâm Phật hiển hiện trong thân không quên mất. Người trì niệm dần dần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng, trong sạch, mát mẻ như trăng thu, tiêu tan hết tất cả phiền não. Khi lâm chung sẽ thấy đức A DI ĐÀ Như Lai, cùng với vô lượng trăm ngàn ức chúng BỒ TÁT đến vây quanh, an ủi, bao che và tiếp dẫn. ương nhân liền được sanh về một trong 9 phẩm sen ở cõi Cực Lạc. Xin xem Kinh Niệm Phật Ba La Mật. Om Mani Padme Hum – Lục Tự Đại Minh Chú Um, Mani Padmé Hùm Hán dịch theo Phạm-âm là “Án ma ni bát di hồng tuy chỉ có sáu chữ ngắn ngủi thôi, nhưng oai lực lớn không thể nghĩ bàn tương đương với oai lực của chú Đại Bi . Vì cả 2 chú Đại Bi và Lục Tự Đại Minh nầy là một sự “tổng hợp” của đức Quán Thế Âm Bồ tát cùng của rất nhiều chư Phật, đã mang hết cả “tâm ý” của Bồ Tát và của chư Phật, giúp cho chúng sanh giải tất cả nạn, tiêu ác nghiệp, dứt trừ bệnh nghiệp, được sự vô úy không còn sợ sệt trước mọi hoàn cảnh và được tất cả sự mong cầu tương đương với “phước, đức” của mình, nhưng phải chánh đáng. Oai lực của chú ĐẠI BI và chú LỤC TỰ có thể dời non, lấp biển, chuyển nắng hạn thành mưa, chuyển gió bão thành nắng ấm, có khả năng đưa người ra khỏi địa ngục, và đưa người lên cõi Trời, cõi Phật, thoát khỏi 3 ác đạo. Ngoài “Bổn Tôn” tức là vị chủ của câu Thần Chú, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và chư Phật ra, không ai hiểu được công năng và nghĩa lý ảo bí của nó kể luôn tất cả các đại Bồ Tát khác ở 10 phương cũng không hiểu thấu được… Có số người không hiểu rõ điều trên, nên đã phí công dịch giải ra nghĩa ý, vô tình làm mất đi phần công lực của Chú. Nhất là lại dùng tâm “phân biệt” chú nầy đúng, chú kia sai, chú nầy mạnh, chú kia yếu, chú nầy dài chú kia ít. mà trì Chú, thành ra trì Chú hoài mà vẫn không có kết quả gì mấy. Từ trước đến nay, các hàng Phật Tử Trung Hoa, Việt Nam, khi đọc tụng Thần Chú đều có chút phần hơi trại, so với Phạn Âm tức âm của chữ Sanskrit, Bắc Ấn Độ, nhưng việc ấy không quan ngại gì, miễn là dùng “tâm chí thành, tin tưởng” khi trì niệm, thì cũng vẫn được hiệu nghiệm như thường. Trong Kinh “ại Bi”, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có dạy “Người nào đối với à-Ra-Ni nầy sanh lòng nghi không tin, phải biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích…” Cho nên, muốn được hiệu nghiệm trên đường tu mật tông thì điều bí quyết là chớ nên khởi lòng nghi ngờ, phân biệt đúng sai, hoặc hiểu nghĩa hay không hiểu nghĩa, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng nữa, quyết cũng “chẳng nên có”. Cứ một lòng chặt dạ y theo đó mà hành trì thì được gọi là trì Chú “đúng như pháp” vậy, vì chư Phật, Bồ Tát vốn không bao giờ vọng ngữ nói lời dối gạt. May mắn cho chúng ta trong kiếp này còn gặp được chánh pháp, còn học được chánh pháp, được minh sư thiện hữu chỉ dạy cho phương cách trì Chú để giải nghiệp tội. Nếu vẫn còn cố chấp không chịu tu, thì thử hỏi kiếp sau cái chấp sẽ còn nặng như thế nào ? Mà đã cố chấp thì khó mà có được trí huệ để làm được những điều tốt lành. Kiếp nầy đã có tâm bủn xỉn, nghi kỵ rồi, kiếp sau hết phước, sẽ ra sao ? Cho nên, rất mong quý bạn đồng tu phải cố gắng lên, tinh tấn trì Chú, niệm Phật, và phải “tận tâm, tận lực, tận cường”, tu hành để chắc thêm phần vãng sanh cho mình, thì mới mong thoát ly sanh tử luân hồi, thành tựu được đạo quả. Làm được như vậy mới không phụ lấy chính mình, và trả được ơn sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp, đúng với câu “Nhất nhân hành đạo cửu huyền thăng. Trước độ mình, sau độ người, và độ khắp thế nhân” Tiểu hiếu hay Đại hiếu Chúng ta ai cũng muốn lo lắng cho cha mẹ mình luôn được đầy đủ phần vật chất. Nhưng, dù làm được trọn vẹn mấy đi nữa, cũng chỉ là trả “Tiểu Hiếu” mà thôi, vì đó chỉ là giúp cho Cha Mẹ tạm thời bớt khổ, chứ không cách chi giúp cho Cha Mẹ thoát khỏi sự khổ của sanh tử luân hồi. Chi bằng, nếu ta nỗ lực tinh tấn tu hành theo pháp môn Mật Tịnh nầy, lại biết khuyên Cha Mẹ, gia đình, bạn bè tu hành như mình, thì sẽ được vãng sanh về Cực Lạc trở thành bậc Bồ Tát sau khi mệnh chung. Chừng đó thì quay lại cõi này để độ hết Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp trả “Đại Hiếu” ! Thời kỳ Mạt Pháp Chúng ta đang trong thời kỳ Tháp Tự Kiên Cố bước qua thời kỳ Đấu Tranh Kiên Cố; Pháp diệt, Ma cường thịnh. Tâm chúng sinh ngày càng thêm xấu ác. Phật đã huyền ký rằng Trong thời kỳ Mạt Pháp này, tà sư “phá pháp” nhiều như cát sông Hằng Kinh Lăng Nghiêm, ngoài ra còn có 96 ngoại đạo, tà giáo tìm đủ mọi cách để tiêu diệt Phật Giáo nữa, không cho một ai tu thành đạo cả. Tương lai sẽ không còn in kinh, thuyết chánh Pháp nữa. Hiện nay chúng ta cũng đã nhận thấy biết rồi, Phật Pháp đang bị phá hoại tiêu diệt một cách tinh vi và khéo léo đến nổi ít có ai nhận diện ra được. Nó khảo đủ mọi cách hết Nội khảo, ngoại khảo, thuận khảo, nghịch khảo… Nó làm cho tâm tánh con người không còn NHÂN TÌNH nữa càng ngày càng ác hiểm. Chúng ta khó thể nào có được tâm lực, chánh tâm, chánh trí, và chánh kiến. Hiện nay, tâm của con người bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Nào là tham lam, cố chấp, tranh đua, sân hận, dâm dật, vì thế, cho nên dẫn đến cả thế giới đang lầm than trong đau khổ, tai nạn, binh đao khói lửa, chiến tranh sớm muộn sẽ bùng nổ trong nay mai. Muốn biết trong tâm của chúng sanh như thế nào, thì cứ nhìn ra ngoài thế giới hiện nay ra sao sẽ biết liền. Bên trong tâm con người thì đầy phiền não, bên ngoài thì quá nhiều cám dỗ. Xã hội sao không động loạn cho được? Ma quỷ dựa nhập đầy đường, không bỏ sót một ai, chúng vô từng nhà, từng quán chợ, đi vào tâm thức của từng người trong khi thức, cũng như trong lúc ngủ, mà nó biết mặt, biết tên, biết nhà quấy phá khắp nơi trên thế giới. Nhà nhà khói đen bao phủ. Người người khổ sầu, ai oán…nên chiêu cảm đến bão lụt, khói lửa cháy lớn, thất nghiệp, đói khổ lan tràn, nhà tan cửa nát, mất nhà mất việc làm, bệnh tật ngày càng nhiều khó chữa trị Cũng vì do từ nơi TÂM xấu ác của con người mà phát sanh ra hết cả. Nếu như mọi người đều có cái tâm tốt, tâm an, tâm đầy lòng bác ái, thì gia đình sẽ được vui vẻ, thuận hòa, thế giới sẽ an bình, phồn thịnh. Dù cho Ma quỷ dữ cách mấy cũng chẳng làm gì được, đôi khi họ còn kính phục mà chịu quy mạng lễ ! Đức Trọng Quỷ Thần Kinh! Mong sao chúng ta mau buông bỏ những thói hư tật xấu, cố chấp của mình đi, mà sám hối lo tu sửa từ xấu ra tốt, buông bỏ những việc vừa ý hay không vừa ý, đúng với sai để chuyển hướng nạn tai sắp xảy ra, hầu được an lành sống đến ngày trăm tuổi. Sư Tổ Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM đã thấy biết trước là sau nầy đa phần các Phật tử nói riêng và mọi người nói chung, đều bị tà ma dựa, nhập và bị khống chế, ít có ai tu mà được đầu thai lại làm người, thì đừng nói chi đến việc giải thoát về cõi Trời, cõi Phật. Với lòng từ bi quảng đại, Ngài mới khai mở ra pháp tu MẬT TỊNH, soạn ra những Thần Chú từ trong MẬT TẠNG của Đại Tạng Kinh, hầu cứu độ các Phật tử có thiện căn và chân thật tu hành thoát khỏi Ma nạn, để giữ vững được đường tu, mới bảo đảm được vãng sanh về nơi Cực Lạc Tịnh Độ. Ai thật tâm tu hành bắt buộc phải kiêm thêm TRÌ CHÚ để hộ thân và tâm không bị khảo đảo mà lạc vào lưới của Ma, lấp đi con đường vãng sanh vậy Niệm Phật & Trì Chú Như đã nói ở trên, NIỆM PHẬT được bất tư nghì CÔNG ĐỨC TRÌ CHÚ được bất tư nghì THẦN LỰC cái lực nầy sẽ giúp cho ta thoát nạn khổ Nếu chỉ chuyên NIỆM PHẬT mà không có TRÌ CHÚ đi kèm, thì cũng giống như người đang bị đủ thứ bệnh tật, kẻ ác bao vây tứ phương, ngày đêm chẳng được yên, mò mẫm, lê lết mà đi, không may gặp phải giặc cướp Ma ồ ạt xông đến bắt, chừng đó thì Không có TÂM LỰC không biết dụng tâm Không có SỨC LỰC để chống trả Không cóTRÍ LỰC để phân biệt chánh tà Không có chút THẦN LỰCnào để đề kháng cả Lúc đó sợ quá, không còn nhớ niệm Phật nữa, á khẩu đứng tim mà chết. Vậy thần thức có còn được yên để về Cực Lạc không ? Từ bi phải có trí huệ đi kèm. Niệm Phật phải có Thần Chú đi kèm hai cái nầy không thể thiếu một. Những người không có chánh tâm, không chân thật tu hành cần cầu giải thoát, hoặc có cái TÂM NGHI NGỜ, PHÂN BIỆT, XẤU, ÁC thì khó thể trì Chú cho được, sẽ dễ bị “tẩu hỏa nhập ma” bởi vì Thần Chú đó là tâm ý của Phật nên thuần “CHÁNH”, nếu như đem cái tâm “TÀ” mà trì Chú thì không thể nào cảm ứng hoặc thành tựu được là như vậy . Cho nên, trong thời kỳ pháp diệt tận này, rất ít có người “dám” trì Chú, hoặc biết về Ấn Chú của Phật gia một cách tỏ tường. Thậm chí có nhiều người sợ không dám trì Chú, lại còn phỉ báng và ngăn cấm người trì Chú nữa. Nhưng họ không hiểu rằng Chính Đức PHẬT xưa kia cũng đã dùng Thần Chú để hàng phục Ma quân, và cứu đệ tử của Ngài ra khỏi Ma nạn! Ta hãy thử hỏi Người TU trụ trì ở trong chùa đã dùng Thần Chú gì để sái tịnh Chùa, sái tịnh hằng ngày cho bản thân mỗi khi ăn, uống, tắm gội , cúng vong linh, cầu siêu, phát tang, xả tang, triệu hồn, thí thực, phóng sanh, cho đến công phu mỗi sáng ? Hỡi ôi ! Có được mấy người chịu TIN, chịu trì Chú, và thi hành đúng theo như điều luật của nhà Phật? Hiện nay, đa phần Phật tử chỉ thích tụng Kinh, niệm Phật cầu PHƯỚC qua ngày, hoặc thích ngồi Thiền hơn là Trì Chú tức là tu theo MẬT TÔNG chân chánh của PHẬT vậy. Muốn biết thể giới Quy Y Tam Bảo của mình còn hay mất, hãy xem lại cái tâm của mình có làm những điều xấu ác, có gần gũi, hoặc thân cận với kẻ ác không thì sẽ biết ngay. Như là Tham tiền, tham danh, Việc xấu nào mà không làm. Thị phi nào mà không nói. Không nói “có”, có nói “không”. Nói xấu Phật, nói xấu người tốt. Thường hay sân giận, tâm tánh ích kỷ, bủn xỉn Thường ganh tỵ, đố kỵ Tranh chấp phải quấy, thấp cao. Cố chấp, hận thù không xả. Tranh đấu không biết mệt Giành giựt cái tốt về mình. Không biết ơn nghĩa, liêm sỉ. Nhục mạ người chân tu. Khinh sư diệt tổ. Giết Thầy, hại bạn. Dẫn dắt Phật tử tu sai lầm không giống đường lối của Phật, của Tổ sư muốn dạy. Đó chỉ là lược ra sơ sơ ở trên cũng đủ thấy Tam Quy, Ngũ Giới đã là khó giữ nổi, thì nói chi đến Bồ Tát giới, Tỳ Kheo giới !!!Thần Thánh nào tiếp tục gia hộ cho mình đây ?! Thân hôi thì người đời lánh xa. Tâm hôi thì thần thánh lánh xa. Nếu như đã mất hết thể giới Quy Y rồi, thì tự động 25 vị Thần theo hộ cho mình cũng sẽ bỏ đi luôn. Chừng đó, Ma quỷ sẽ dễ dàng nhào vô làm hại, bắt hồn, bắt xác mà thôi… Tịnh Độ Tông hay Mật Tông? Có rất nhiều Phật tử chưa hiểu thấu, nên nghĩ rằng Tu Tịnh Độ niệm Phật rất dễ, người chánh hoặc tà nào cũng tu được. Còn tu theo Mật Tông thì rất khó trì Chú hoài cũng không thấy có kết quả gì cả,và người mà trì Chú sẽ khó thành được đạo quả ! Hoặc là Muốn về Cực Lạc mau, thì phải “chuyên” niệm Phật, không nên trì Chú. Vì tu hai pháp môn Mật Tịnh một lượt sẽ bị chi phối, không được nhất tâm, không được vãng sanh! Cho nên, hiện nay hầu hết Phật tử đã từng tu theo pháp môn MẬT TỊNH đều từ từ bỏ trì Chú như Chú Hộ Thân, Lăng Nghiêm, Đại Bi, Bát Nhã, Vãng Sanh cho đến bỏ đắp mền Tỳ Lô luôn nữa. Phải biết rõ thêm rằng, ba môn vô lậu học Giới, Định, Huệ tượng trưng cho Giác, Chánh, Tịnh, và lại cũng tượng trưng cho Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Phật nghĩa là “Giác Ngộ”. Pháp tức là “Chánh Pháp”. Tăng mang ý nghĩa “Thanh Tịnh”. Tu học Phật Pháp không ngoài ba môn Giác, Chánh, Tịnh nầy. Đây cũng ví như ba cửa Tam Quan trước cổng chùa, vào được một cửa là vào được nhà của Như Lai. Như Thiền Tông thì chủ trương thấy tánh thành Phật. Đây là theo môn “Giác” mà tu hành. Giáo Tông thì chủ trương nghiên cứu Kinh Giáo. Đây là theo môn “Chánh” mà tu hành. Mật Tông và Tịnh Độ đều giống nhau, vì đòi hỏi phải có tâm “Thanh Tịnh”. Đây là theo môn “Tịnh”mà tu hành. Ngoài ra, Tịnh Độ và Mật Tông đều là pháp môn “Nhị Lực”. Nghĩa là ngoài sức mình tu ra tự lực, còn được nhờ vào “Từ lực” tha lực bổn tôn của Thần Chú và “Tâm lực” của chư Phật gia trì. Vì thế Hai môn “Mật” và “Tịnh” song tu thì rất là “hạp” căn. Còn ngược lại Hai môn “Thiền” và “Tịnh” song tu, thì không hạp căn được, trừ khi là người Thượng Thượng căn, vì một bên theo Không môn Thiền, còn một bên theo Hữu môn Tịnh. Tu Tịnh Độ & Mật Tông khó hay dễ? Mật Tông và Tịnh Độ đều khó như nhau và cũng đều dễ như nhau. Tại sao dễ ? Dễ vì câu “A Di Đà Phật” hay Chú “Um Brum Hùm”, thì ai cũng trì được. Nhưng tại sao khó ? Khó bởi vì cả hai đòi hỏi người Trì Chú, hoặc Niệm Phật đều phải có được cái tâm trong sáng, thì mới có thể phát sinh ra được “tâm lực”, rồi từ tâm lực đó dần dần mới có được “thần lực.” Chính cái “tự lực” này mới phụ với “tha lực” của Đức Phật A Di Đà mà đưa mình về Cực Lạc được. Nhờ có Tâm lực trong sáng mới bắt được làn sóng của chư Phật, Bồ Tát, mới cảm ứng đạo giao, mới giải nạn Thiên tai, và được tiếp dẫn vãng sanh. Còn như, nếu dùng cái tâm phân biệt, tâm phan duyên, tâm cố chấp, tâm xấu ác mà niệm Phật thì sẽ bắt nhằm phải làn sóng của Ma, khiến cho Ma Quỷ kéo đến đầy nhà, bệnh tật kinh niên, khảo đảo không ngừng, gia đình bất an, sở cầu không được như ý Dù niệm Phật bể cổ cũng không được vãng sanh, trái lại còn làm “oan gia” trong cửa đạo vì vô tình đã tiếp tay với kẻ ác tiêu diệt Phật Pháp mà ngay chính mình không hề hay biết, cứ tưởng rằng mình đang làm Phật sự! Mật Tịnh là cùng nguồn gốc Cả hai, một MẬT, một TỊNH đồng chung nguồn gốc mà sanh ra. Nay phối hợp cả hai phần MẬT và TỊNH nầy lại thì sự thành công càng tăng thêm gấp bội. Trong bộ Luận Đại Trí Độ, Ngài Cưu Ma La Thập có giảng rõ Trì Chú có nghĩa là gìn giữ và bảo vệ. Gìn giữ là gom góp các pháp lành không cho tan mất. Bảo vệ là ngăn ngừa tâm bất thiện không cho phát sanh. Trì Chú là giúp tăng trưởng Huệ lực, Thần lực. Duy trì tâm lực, bảo tồn chân khí như người bị mất hết chân khí sẽ bị bệnh hoài, thân tâm thường mệt mỏi, ngày càng kiệt sức, trí huệ mê mờ, không còn tự chủ, dễ bị Ma quỷ dựa nhập. Người trì Chú có được chánh tâm, chánh ý. Thống nhiếp và duy trì vô lượng Phật Pháp, khiến không bao giờ hoại diệt. Khi trì Chú, tay nên kết Ấn, miệng trì Chú trì cho ra tiếng, mắt nhìn tượng Phật, tâm quán nhớ tưởng chữ Rảm chủng tử biểu tượng cho bản thể của chư Phật. Pháp môn Trì Chú giúp cho người tu “phát sanh trí huệ” để kiểm soát được hành động, lời nói, ý nghĩ và phân biệt được rõ ràng đâu tà, đâu chánh. Như vậy thì hành động, lời nói và ý nghĩ sẽ trở nên trong sáng, vọng niệm tự nhiên không khởi. Không khởi niệm phân biệt, giữ tâm trong sáng thì mới phát sinh ra được “đạo lực” cái lực nầy mới có khả năng độ mình, độ người giúp giải được nạn Thiên tai và được giải thoát. Cách niệm Phật, trì Chú lớn tiếng nầy gọi là “Bố Ma” làm cho ma khiếp sợ mà bỏ chạy, nhiếp được thân, khẩu, ý trong sáng và có được những lợi ích đặc biệt sau đây Diệt được sự buồn ngủ, hôn trầm Tâm không tán loạn Chuyện đời chẳng lọt vào tai Có cặp mắt sáng Tiếng nói rổn rảng, mạnh mẽ, cứng chắc, đầy thần lực Có tướng đi mạnh mẽ, oai phong Lời nói thẳng thắn, mạnh dạn Tâm thần cương trực, không nhút nhát, không sợ sệt, xông pha vô trận hàng phục ma quân Dõng mãnh, tinh tấn Tâm lực, thần lực phát sanh ra cực mạnh Bệnh nghiệp được tiêu trừ Tứ Đại điều hoà Tâm thể an nhiên Khi trì Chú phát ra vòng hào quang bao phủ quanh thân người trì Chú Bùa ngải, độc trùng, gió độc không xâm phạm đến thân mình được Thiên Ma phải nể sợ Vong linh vất vưởng chung quanh nghe được âm thanh của Thần Chú đều được siêu thoát Côn trùng, chuột, kiến, gián, nhện, bọ, tự động đi mất, hoặc được thoát kiếp hết Những vong linh hữu duyên, và cửu huyền cũng được siêu thoát Thiên Long Hộ Pháp luôn ở bên cạnh hộ trì, an ủi, nhắc nhở, chỉ dạy Tất cả sở cầu đều được như ý Danh tiếng từ từ vang khắp mười phương Tam Muội hiện ra trước mắt Mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát đều vui mừng thọ ký Lâm chung chánh niệm, biết trước ngày giờ, vãng sanh Cực Lạc quốc. Tu tập theo pháp môn Mật Tịnh tức là “luyện” cho thân tâm được thuần thục, nó đòi hỏi người tu một sự tha thiết, quyết tâm xả bỏ những tâm xấu, luôn mong cầu được giải thoát, chứ không phải là “có căn” Mật mới tu được. Nếu căn cơ cao, tâm đã tịnh, thì cần chi phải tu niệm Phật, hay Trì Chú ? Ở phần trước đã có nói Muốn đạt được kết quả tốt đẹp trên đường tu mật tông thì điều tiên quyết là chớ nên khởi lòng nghi ngờ, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi”, “chấp” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng nữa, quyết cũng chẳng nên có. Cứ một lòng chặc dạ y theo đó mà hành trì thì được gọi là “đúng như pháp” vậy! Vì chư Phật, Bồ Tát quyết không bao giờ vọng ngữ nói lời dối gạt! Cho nên, muốn bảo đảm được vãng sanh trong kiếp nầy, song song với niệm Phật ta cần phải kiêm thêm phần Trì Chú, mới giải được sự khảo đảo khi oan gia kéo đến, và chắc thêm phần vãng sanh cho chính mình. Hàm ý 2 chữ Mật Tịnh Người tu phải TRÌ CHÚ Mật trước, rồi mới NIỆM PHẬT Tịnh sau. Tại sao ? Vì khi trì Chú sẽ tạo ra cái LỰC để giúp cho thân nhẹ nhàng, Khẩu thanh tịnh, Ý trong sáng, như vậy khi NIỆM PHẬT mới được trọn vẹn công đức. Nếu luôn hành trì như vậy, giữ tâm trong sáng như vậy suốt đời thì chắc chắn sẽ được vãng sanh, vĩnh viễn thoát ly sanh tử luân hồi. Nên xem Kinh “Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương” để biết rõ thêm về công năng của Thần Chú, sự lợi ích của Mền Tỳ Lô, mặc áo Chú, đeo Chú, vẽ Chú, và mật hạnh của người thọ Bồ Tát giới để cứu độ chúng sanh và công đức về việc “trích máu tả Kinh” Tóm lại Muốn HÓA GIẢI ĐƯỢC THIÊN TAI và THOÁT ĐƯỢC MA NẠN, bình yên tu hành cho đến ngày VÃNG SANH, bắt buộc phải hành trì Pháp môn Mật Tinh song tu. NIỆM PHẬT nhưng trong Tâm không rời tiếng Chú, lúc nào cũng vang rền bên tai trong nhà nên mở máy trì Chú suốt ngày, đêm Câu thần Chú “thay cho tiếng lệnh của chư Phật và Bồ Tát”, nên có công năng giải nghiệp nạn không thể nghĩ bàn, giúp HỘ THÂN KHÔNG BỊ NẠN TAI nước, lửa, bão lụt, kẻ ác làm hại, bùa ếm, ma quỷ, không làm hại được đến thân của người đang trì Chú nầy. Hễ “hóa giải” được cho mình bình an, thì sẽ giúp cho những người chung quanh cũng được bình an, thoát nạn. Tất cả Thiên Tai, chiến tranh, khói lửa đều do TÂM của chúng sanh chiêu cảm ra hết cả. Vì chúng sanh thường hay có TÂM SÂN dữ tợn, nên chiêu cảm ra LỬA DỮ TÂM MONG CẦU, THAM LAM, nên chiêu cảm ra MƯA, BÃO LỤT, SÓNG THẦN TÂM SÁT, ẾM HẠI NGƯỜI, nên chiêu cảm ra CHIẾN TRANH, KHÓI LỬA TÂM SI MÊ, nên chiêu cảm ra GIÓ SOÁY, GIÓ BÃO, và trùng trùng điệp điệp những cái khổ đến, sẽ không giản dị, không dễ dàng đối phó. Bởi vì tất cả Thiên Tai gây ra đều do nơi TÂM ÁC của chúng sanh. Bởi Tâm chúng sanh càng ác, càng dữ, càng có nhiều sáng kiến, nhiều thủ đoạn, càng phát minh, thì hậu quả sẽ càng “đập lại” chúng sanh không thương dị. “10 phương chư Phật và hằng hà sa số Bồ Tát đang hiện thân bao phủ cõi Ta bà của chúng ta, nhưng không làm sao ngăn chận được làn sóng thần đen kịt đang ồ ạt kéo đến một cách dữ tợn…” Muốn HÓA GIẢI được Thiên tai, thì cũng phải từ nơi TÂM “thiện” của chúng sanh mà TU SỬA, SÁM HỐI, TRÌ CHÚ, và ngưng làm ác. Rồi Dùng “LỰC THIỆN” trong tâm mình “quán” vang xa ra để hóa giải những điều hung ác. Dùng “LỰC THANH TỊNH” từ nơi tâm để hóa giải những sự biến động. Ngồi tại nhà TRÌ CHÚ vẫn giải được nạn tai cho chúng sanh. Nên hiểu rằng, Phật chỉ độ người hữu duyên. Chư Phật, Bồ Tát chỉ giúp cho những người có căn lành TU SỬA và HOÁN CHUYỂN TÂM TÁNH, thường xuyên kiểm tâm, hành trì điều thiện; như vậy các Ngài mới có thể giải nạn tai được. Cho nên Phật, Bồ Tát không thể nào CỨU ĐƯỢC NHỮNG CHÚNG SANH CÓ TÂM ÁC. Cũng như Ma Vương, không thể nào đứng giữa hư không để “tiêu diệt” được hết những chúng sanh có tâm chí thành, tu hành chân chánh ! Ma Vương không hại được người có tâm lành, tu hành chân chánh. Phật, Bồ Tát không cứu được người có cái Ác Tâm. Phật và Ma Vương cũng đều nương theo tâm thiện, tâm ác của chúng sanh mà thôi. BỒ TÁT cùng với chư PHẬT khắp 10 phương đều nghe, đều thấy hết những tiếng kêu cứu, những lời than khổ của chúng sanh, nhưng không cách nào cứu được họ, vì phải do TÂM CỦA CHÚNG SANH đó THA THIẾT, THẬT LÒNG MUỐN CỨU. Những người thật lòng kêu cứu, đều đã được Bồ Tát ra tay cứu độ cho họ được tai qua nạn khổ rồi số chúng sanh được cứu thì rất là ít oi. Còn số người đang và sẽ bị nạn tai, khói lửa trong tương lai nhiều không kể xiết. Xác người chết như bèo trôi sông vậy. Chư Phật, Bồ Tát chỉ đành biết lấy mắt nhìn mà rơi lệ. Vì quý Ngài không thể cứu độ chúng sanh có những TÂM quá ác độc được. Chiếu đúng theo luật thì gieo NHÂN nào, hái QUẢ đó. Cho nên, mỗi khi Thiên Tai đến với mình, thì đừng nên trách Trời, Phật chi cả cho mang thêm tội, mà hãy dùng 2 tay đập vào đầu mặt mà chửi mắng mình “sao mầy ác quá vậy, để bây giờ phải trả quả ác, không ai cứu được cả !” Tất cả đều do Tâm sinh Lành, dữ, thiện, ác, siêu, đọa, họa, phước đều do nơi TÂM cả. Hễ giữ được cái Tâm vui vẻ, thì trong nhà ảnh hưởng sự mát mẻ, nhẹ nhàng, công ăn việc làm yên ổn. Còn như trong Tâm mang nhiều phiền não, chấp nhất, bực bội thì trong nhà bị khí đen bao phủ, nặng nề, bệnh hoạn, công ăn việc làm bị trắc trở, vợ chồng gây gổ TÂM của một người đã ảnh hưởng như vậy rồi, thì nói chi đến nhiều cái Tâm ÁC cộng lại, sẽ ảnh hưởng như thế nào? Hễ TÂM chúng sanh an bình, vui vẻ thì cả thế giới cũng sẽ an lành, bình yên, mưa hòa, gió thuận. Điều này được chứng minh qua một câu chuyện tại Hoa Thịnh Đốn có “4 ngàn cái TÂM an bình” Cách đây 20 năm về trước, Tạp chí Khoa học của Mỹ đã tuyên bố một nghiên cứu thí nghiệm xã hội học lần đầu tiên được thực hiện tại Đại Học Maryland, thuộc vùng Washington DC. Mùa hè vào năm 1993, có 4 ngàn người từ khắp thế giới 81 quốc gia ghi danh tham dự khóa TU “THIỀN MẬT” Thiền định của sự TRÌ CHÚ suốt 2 tháng. Họ dạy cho 4 ngàn người nầy phương cách TRÌ CHÚ để giúp cho ĐỊNH cái TÂM của họ, hầu có thể làm giảm “ẢNH HƯỞNG” và “NGUỘI” bớt đi những việc ác, hành hung, giết người, hãm hiếp, cướp giựt, bạo lực và kẻ tội phạm đã xảy ra cực mạnh tại Washington, DC trong thời điểm đó. Kết quả trong 2 tháng là Họ đã phát hiện ra và cho thấy rằng tỷ lệ tội phạm, bạo lực trong đó bao gồm luôn việc giết người và hãm hiếp – đã được giảm xuống 23% trong thời gian thử nghiệm cái ĐỊNH TÂM của 4000 người. Nhà Vật lý học Tiến Sĩ Hagelin đã từng nghiên cứu trước đây cho biết rằng “Những kỹ thuật Thiền Định và Trì Chú giúp tạo ra một trạng thái “thư giãn” sâu sắc. TÂM LỰC của 4000 người tham gia tạo ra một làn sóng AN BÌNH, NHẸ NHÀNG và DỊU MÁT đã ảnh hưởng đến môi trường TRẬT TỰ chung quanh và ảnh hưởng luôn đến những người khác mà không hề biết và không tham dự trong cuộc thử nghiệm này.Tâm Lực của 4000 người này hợp lại đã tạo ra động tác “HIỀN HÒA” chiêu cảm và ảnh hưởng đến “khí hậu” cho đến số “phạm nhân” trong xã hội cũng được “yên lành”. Kết quả cho thấy sự cảm ứng của lãnh vực về “Tâm Thức” Học mạnh không thể nghĩ bàn.” Những sự chết chóc, khổ nạn, bạo lực gây ra bởi sự “căng thẳng” cực mạnh từ trong “Cộng TÂM” của chúng sanh mà ra. Người đã chết rồi, cũng còn mang nghiệp cũ, đầu thai lại tạo thêm nghiệp mới, và cộng thêm nghiệp chung của môi trường trong xã hội. 3 cái nghiệp cộng lại quá nặng, nên rất khó tìm cầu giải thoát cho được. Các nhà khoa học gia như Edison và Marconi cũng đã chứng minh cho ta thấy những làn sóng của điện, radio có khả năng chuyên chở ánh sáng và âm thanh, thì Tâm lực của chúng sanh cũng vậy. Mỗi khi phát lên tiếng trì Chú với tâm trong sáng, lập tức hào quang của tâm Chú này phát sáng ra chuyên chở cái Tâm lực của người đang trì Chú, và người trì Chú đó cũng đang chuyên chở hết Tâm ý của BỒ TÁT, và luôn cả Tâm lực của PHẬT, lập tức vang ra xa, HÓA GIẢI hết tất cả biến động chung quanh, tai qua, nạn khỏi, mọi việc bình an. Thay lời kết Phật tử tu Mật tông nên biết Đức QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát cùng với chư Phật vì thương chúng sanh, nên đã ban cho chúng ta một kho tàng vô tận, mà chúng sanh không biết xử dụng đúng chỗ, đúng như pháp, nên không được lợi ích và cảm ứng chi cả. Người đời không hiểu rõ công năng biến hóa thù thắng và thần lực cao siêu vô cùng tận của Chú, nên đã khởi tâm tà, lạm dụng “Ấn, Chú” của Phật, của Bồ Tát để khống chế người, hãm hại người lành, làm trái ngược với “Tâm từ bi” và khắc với “Tâm ý” của Phật, của Bồ Tát, thì nó sẽ phá tác rất nhiều, hậu quả đọa đày cũng sẽ vô cùng tận ! Phải cẩn thận điều này Người đời có quá nhiều thứác tâm, tham, sân lẫy lừng và thường mong cầu toàn những sự việc mà không thể nào ban cho được, lại lười biếng không chịu tự bản thân tìm cầu học hỏi chi cả, không chịu tu tập, không chịu hành trì đúng theo chánh pháp của Phật dạy, không chịu bố thí, không chịu làm những điều thiện, chỉ muốn tất cả tiền tài, danh lợi và mọi sự ham ưa phải rơi vào hết trong tay của họ mà thôi. Họ đã không sợ chết, không sợ tội, không sợ đọa đày, không sợ hậu quả nên thẳng tay giết hại người nhiều không kể xiết chỉ vì một chút hư danh! Điều nhiều người không biết Tất cả thần Chú của Phật của Bồ Tát rất là diệu dụng, xem như là một câu thần chú “như ý”, có công năng cứu người ra khỏi tất cả sự khổ nạn, đưa người thoát khỏi cảnh đọa đày, giải thoát ra khỏi 3 cõi, 6 đường, chứ không thể làm trái ngược lại theo những tâm ác của người đời được, sẽ bị quật ngược trở lại phá tác ngay; thì kết quả sẽ không tốt. Hễ khởi những tâm ý xấu, ác muốn hại người như thế nào, thì sẽ chuốc lấy hậu quả y như vậy. “Ngậm máu phun người dơ miệng mình,” cũng giống như ngước mặt lên trời mà phun nước bọt vậy. Vì thế, người trì chú Hộ thân, chú Đại Bi, chú Lục Tự Đại Minh và những chú khác của chư Phật, chư Bồ Tát bắt buộc phải có lòng thành kính, tâm ý phải thanh tịnh và trong sạch để trì Chú, chỉ được mong cầu những điều tốt đẹp cho người, ích lợi cho người, cứu độ cho người thoát khỏi cảnh khổ, chướng nghiệp khảo đảo, nạn tai đang xảy ra khắp nơi, nếu có tâm ý tốt tạo phương tiện và dẫn dắt người tu tập theo chánh pháp thì mới xử dụng Ấn Chú được cho bất kỳ một trường hợp nào không có mang lỗi . Tà nhân thuyết chính pháp, chính pháp biến di tà, Chính nhân thuyết tà pháp, tà pháp xu bội chính. Khi trì Chú, phải giữ lòng trong sạch, hạnh Bồ Tát, lòng Từ Bi phát khởi thì mới có thể phát huy được TÂM LỰC, THẦN LỰC sẽ bay xa ngàn dặm, tâm ý trong sáng của người đang trì chú đến tận 10 phương chư Phật, sẽ được hằng hà sa số chư Phật, chư đại Bồ Tát phóng quang chiếu sáng bao bọc cho người đó, thì đâu sợ gì không được cảm ứng đạo giao, đạo lực ngày càng thêm thăng tiến, sở cầu luôn được như ý. Mọi việc từ trong gia đình thân tộc cho đến việc ngoài đời cũng đều được tốt đẹp hết cả. Lòng “thương” của chư Phật, của đức QUÁN THẾ ÂM Bồ tát nói riêng và chư đại Bồ Tát ở khắp 10 phương nói chung đối với chúng sanh vô bờ bến. Quý Ngài luôn cảm nhận được tất cả tâm ý của chúng sanh, nhưng TÂM của chúng sanh không được trong sạch, Ý tưởng rất là không lành và luôn bị che lấp bởi những điều sái quấy, sân hận lẫy lừng, tham danh, đoạt lợi, hại người lành một cách dữ tợn, do đó mà không thể nào giao cảm được với chư Phật, chư Bồ Tát. Quý Ngài chỉ biết yên lặng đứng nhìn mà rơi lệ, Bồ Tát kề cận với một chúng sanh đang đau khổ, đang trong hoạn nạn, mà không thể nào giao cảm được cả, cũng không thể nào cứu độ được cho những chúng sanh đó. Bồ Tát rất đau lòng vì muốn giảng giải, muốn chỉ rõ cho chúng sanh hiểu cũng rất khó, vì lời dạy của Bồ Tát không thể nào lọt hết vào tai của chúng sanh, nên phải mượn tay người để cứu người là như vậy. Cho nên người mà chuyên tâm, nhất tâm trì Chú, xem như có Bồ Tát đang đứng trước mặt, mà chân thành sám hối và tu sửa thân tâm được trong sạch, thì sẽ đạt được cái “Tâm lực, Trí lực, Thần lực” cực mạnh, sẽ được cảm ứng đạo giao với PHẬT, với BỒ TÁT. Điều này không có gì là khó tin, khó hiểu cả. Mây tan vầng nguyệt rạng, nước cạn trái châu bày, Tâm trong sáng thì Phật hiện. Thiên tai cũng không nổi lên được. Một khi tâm căng thẳng của chúng sanh lắng xuống, tâm được AN rồi, sẽ phát khởi được cái Tâm “từ bi hỷ xả” không còn ác, tham lam, sân hận, đố kỵ, ganh tỵ và chấp nhứt nữa. Mọi người sẽ trở thành một cái máy phát trật tự và hòa bình trong xã hội, an vui mãi mãi… Nếu chúng sanh tập phát khởi “thiện tâm” nhiều hơn, nhất dạ hành trì pháp môn Mật Tông thì sẽ giải được Thiên Tai, và bảo đảm cho bước đường “giải thoát”cùng“vãng sanh”ngay trong đời này. Ohm Mani Pad Mi Hum Trân trọng, Hoà Thượng Thích Thiền Tâm Đăng nhập
Chú Đại Bi được xem như là một loại kinh cứu khổ cứu nạn của đạo Phật hiện nay. Nếu như chư Tăng ni, Phật tử thành tâm niệm chú hàng ngày sẽ có thể đạt được những gì mà bản thân mong cầu. Vậy sự khác biệt giữa chú đại bi 3 biến, 5 biến, 7 biến, 21 biến là gì? Nội dung chính1 Chú đại bi là gì?2 Chú đại bi có nguồn gốc ra sao?3 Sự khác biệt giữa chú đại bi 3 biến, 5 biến, 7 biến, 21 1. Chú đại bi 3 2. Chú đại bi 5 3. Chú đại bi 7 4. Chú đại bi 21 biến4 Lợi ích khi kiên trì tụng chú đại bi 3 biến, 5 biến, 7 biến, 21 biến5 Lời chú đại bi tiếng Việt biên soạn từ tiếng Phạn6 Lời chú đại bi tiếng Việt 84 câu Chú đại bi là bài chú được trích từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Đây là quyển kinh thư đã từng được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn giải trong một pháp hội có sự có mặt đầy đủ của chư Vị Phật, chư vị Bồ Tát, các thần và vương. Qua đó, chú đại bi có thể được hiểu chính là kim khẩu của Quán Thế Âm Bồ Tát, có tác dụng thanh tẩy tất cả phiền não và nghiệp chướng của chúng sinh. Chính các vị Đức Phật cũng từng phát nguyện rằng, nếu như chúng sinh khi kiên trì tụng trì chú đại bi thường xuyên sẽ không bị đày đọa vào ba đường ác, được sinh về cõi Phật, được vô lượng tam muội biện tài. Ngoài ra Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng, chỉ trừ trường hợp chúng sinh trì tụng để mong cầu những điều không thiện hoặc không thành tâm trì chú thì việc trì tụng chú đại bi mới không có tác dụng. Còn lại tất cả những mong cầu nếu không được vừa ý trong kiếp này thì thần trú này sẽ không thể được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Chú đại bi có nguồn gốc ra sao? Theo như trong kinh Phật có ghi chép lại thì bài chú của chú đại bi vốn được Bồ Tát Quán Thế Âm đọc trong một pháp hội với sự hội tụ đông đủ của các chư Phật, Bồ Tát, Thành, Vương. Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, được thuyết ra với mục đích cầu cho chúng sinh được an vui, diệt trừ các loại bệnh tật, loại bỏ tất cả nghiệp ác, chướng nạn, giúp chúng sinh sớm đạt được thành tựu và tất cả thiện căn, bản thân tiêu tan sự sợ hãi, được giàu có, sống lâu hơn và sớm mau cầu đầy đủ tất cả những cái mong muốn. Trong tư tưởng của đạo Phật, Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng quan trọng nhất của Phật pháp Đại thừa. Người chính là đại diện cho lòng trắc ẩn của tất cả chư Phật trên thế gian này. Do đó, mọi chư Tăng ni, Phật tử đều tin rằng ngài là hiện thân của sự cứu rỗi cho tất thảy chúng sinh, ngay cả với những người đã từng phạm phải những tội lỗi to lớn khó có thể tha thứ được. Sự khác biệt giữa chú đại bi 3 biến, 5 biến, 7 biến, 21 biến 1. Chú đại bi 3 biến Chú đại bi 3 biến là bài kinh chú được trì tụng lại 3 lần. Thông thường thì chú đại bi 3 biến được các chư Phật tử trì tụng tại gia khi không có quá nhiều thời gian, điều kiện không cho phép. Tuy rằng có thể đọc bao nhiêu lần lời chú là tùy thuộc vào mỗi người. Không quan trọng việc Phật tử đọc nhiều hay đọc ít, nhưng khi đọc phải có lòng thành tâm, phải luôn tin tưởng và phát tâm đại bi thì mới có thể nhận được nhiều phước đức và điều tốt lành. 2. Chú đại bi 5 biến Chú đại bi 5 biến là bài kinh chú được trì tụng lại 5 lần. Chư Phật tử có thể hiểu theo cách đơn giản đó là bài Kinh Chú Đại Bi khi dịch ra tiếng Việt cơ bản có 84 dòng. Tùy vào sự thành tâm cũng như nhiều yếu tố liên quan khác về thời gian, không gian, sức khỏe,… mà chư Phật tử có thể trì tụng lặp đi lặp lại bài kinh gốc bao nhiêu lần tùy ý. 3. Chú đại bi 7 biến Chú đại bi 7 biến là bài kinh chú được trì tụng lại 7 lần. Chú đại bi 7 biến là tương đối phù hợp với chư Phật tử trì tụng tại nhà hàng ngày, bởi bài chú không quá dài nhưng cũng không quá ngắn. Khi trì tụng bài chú này thì chư Phật tử cần phải cố gắng giữ cho trạng thái an lạc, càng điềm nhiên càng lâu càng tốt. 4. Chú đại bi 21 biến Chú đại bi 21 biến là bài kinh chú được trì tụng lại 21 lần. Trước khi trì tụng bài chú này thì chư Phật tử cần phải chuẩn bị tâm thái với ba nghiệp tâm, khẩu và ý thanh tịnh tuyệt đối, ngồi phải thẳng lưng, ngay ngắn như khi ngồi trước Đức Phật để thân nghiệp được thanh tịnh. Miệng không được nói lời sai trái, phải luôn nghiêm trang, không cười đùa để khẩu nghiệp thanh tịnh. Ý chí không được tán loạn, chỉ nên tập trung vào hành động trì tụng cho xong bài chú để có thể thanh tịnh ý nghiệp. Lợi ích khi kiên trì tụng chú đại bi 3 biến, 5 biến, 7 biến, 21 biến Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, do ngài Già Phạm Đạt Ma thời Đường biên dịch, thì toàn bộ bài chú này có 84 câu, người trì tụng chú Đại Bi sẽ được 15 điều lành, không bị 15 thứ hoạnh tử bức hại, cụ thể như sau Luôn được 15 điều lành Sinh ra thường được gặp vua hiền, Thường sinh vào nước an ổn, Thường gặp vận may, Thường gặp được bạn tốt, Sáu căn đầy đủ, Tâm đạo thuần thục, Không phạm giới cấm, Bà con hòa thuận thương yêu, Của cải thức ăn thường được sung túc, Thường được người khác cung kính, giúp đỡ, Có của báu không bị cướp đoạt, Cầu gì đều được toại ý, Long, Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ, Được gặp Phật nghe pháp, Nghe Chánh pháp ngộ được nghĩa thâm sâu. Không bị 15 thứ hoạnh tử Chết vì đói khát khốn khổ, Chết vì bị gông cùm, giam cầm đánh đập, Chết vì oan gia báo thù, Chết vì chiến trận, Chết vì bị ác thú hổ, lang sói làm hại, Chết vì rắn độc, bò cạp, Chết trôi, chết cháy, Chết vì bị thuốc độc, Chết vì trùng độc làm hại, Chết vì điên loạn mất trí, Chết vì té từ cây cao hoặc rớt xuống vực thẳm, Chết vì người ác trù ếm, Chết vì tà thần, ác quỷ làm hại, Chết vì bệnh nặng bức bách, Chết vì tự tử. Ngoài ra, theo Kinh Thiên Nhãn Thiên Tí Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú quyển thượng, trì tụng chú này 108 biến, tất cả phiền não tội chướng đều được tiêu trừ, thân khẩu ý thanh tịnh. Lời chú đại bi tiếng Việt biên soạn từ tiếng Phạn Đây là bản chú đại bi được phiên âm từ tiếng Phạn ra âm Hán rồi lại biên dịch lại ra âm Việt để được sử dụng dễ dàng và chính thức trong các các Kinh điển cũng như nghi thức tụng niệm phổ thông tại Việt Nam và hải ngoại nói chung. Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát 3 lần. Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. 3 lần khi trì biến cuối cùng Lời chú đại bi tiếng Việt 84 câu Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát 3 lần Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da Nam Mô A Rị Da Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da Bồ Đề Tát Đỏa Bà Da Ma Ha Tát Đỏa Bà Da Ma Ha Ca Lô Ni Ca Da Án Tát Bàn Ra Phạt Duệ Số Đát Na Đát Tỏa Nam Mô Tất Kiết Lật Đỏa Y Mông A Rị Da Bà Lô Yết Đế Thất Phật Ra Lăng Đà Bà Nam Mô Na Ra Cẩn Trì Hê Rị Ma Ha Bàn Đa Sa Mế Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng A Thệ Dựng Tát Bà Tát Đa Na Ma Bà Tát Đa Na Ma Bà Già Ma Phạt Đạt Đậu Đát Điệt Tha Án A Bà Lô Hê Lô Ca Đế Ca Ra Đế Di Hê Rị Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa Tát Bà Tát Bà Ma Ra Ma Ra Ma Hê Ma Hê Rị Đà Dựng Cu Lô Cu Lô Yết Mông Độ Lô Độ Lô Phạt Xà Da Đế Ma Ha Phạt Xà Da Đế Đà Ra Đà Ra Địa Rị Ni Thất Phật Ra Da Giá Ra Giá Ra Mạ Mạ Phạt Ma Ra Mục Đế Lệ Y Hê Y Hê Thất Na Thất Na A Ra Sâm Phật Ra Xá Lợi Phạt Sa Phạt Sâm Phật Ra Xá Da Hô Lô Hô Lô Ma Ra Hô Lô Hô Lô Hê Rị Ta Ra Ta Ra Tất Rị Tất Rị Tô Rô Tô Rô Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ Di Đế Rị Dạ Na Ra Cẩn Trì Địa Rị Sắc Ni Na Ba Dạ Ma Na Ta Bà Ha Tất Đà Dạ Ta Bà Ha Ma Ha Tất Đà Dạ Ta Bà Ha Tất Đà Du Nghệ Thất Bàn Ra Dạ Ta Bà Ha Na Ra Cẩn Trì Ta Bà Ha Ma Ra Na Ra Ta Bà Ha Tất Ra Tăng A Mục Khê Da Ta Bà Ha Ta Bà Ma Ha A Tất Đà Dạ Ta Bà Ha Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ Ta Bà Ha Ba Đà Ma Yết Tất Đà Dạ Ta Bà Ha Na Ra Cẩn Trì Bàn Dà Ra Dạ Ta Bà Ha Ma Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ Ta Bà Ha Nam Mô Hắc Ra Đát na Đa Ra Dạ Da Nam Mô A Rị Da Bà Lô Yết Đế Thước Bàn Ra Dạ Ta Bà Ha Án Tất Điện Đô Mạn Đà Ra Bạt Đà Dạ Ta Bà Ha Lặp lại 3 lần từ câu Chú 81 đến 84 khi quý vị trì biến cuối cùng.
Tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật là ba phương pháp tu hành đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Đại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời ba phương pháp Tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật có ý nghĩa gì?Phật tử cần phải học tụng Kinh, niệm Phật và trì Chú để lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt Kinh là đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh. Trì Chú là nắm giữ một cách chắc chắn lời bí mật của Chư Phật. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Phật giáo, người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật. Nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng Kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về phép lạy gồm Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức. Vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường đồ phải niệm đủ Tam thế Phật– Niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Đức Phật hiện tại, cũng là Đức Phật Giáo chủ của chúng sinh.– Niệm Đức Phật A-Di-Đà, là niệm Đức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Đức Phật tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc.– Niệm Đức Phật Di-Lặc, là niệm Đức Phật vị miệng tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Đấng Từ phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình Mục đích của việc niệm PhậtNiệm Phật để đưa đến sự nhất tâmLàm sao để ta áp dụng niệm Phật trong các vấn đề sinh hoạt hằng ngày. Khi ta đang làm một việc gì đó, không thể nào chúng ta vừa làm rồi miệng lại niệm Phật cùng một lúc được, có khi lại gây ảnh hưởng vậy, khi làm bất cứ việc gì, chúng ta tập trung nhìn nhận rõ, đâu là đúng, đâu là sai, đâu là cái cần phải gạt lọc, đó là ta đã sống trong giây phút của tỉnh thức rồi, việc này đồng nghĩa với việc chúng ta niệm Phật để được giải thoátNiệm Phật là để được giải thoát, vậy từ giải thoát là gì? Chữ giải có nghĩa là mở, thoát là ra, nhưng đôi khi chúng ta không hiểu rõ rồi lại nhìn chữ giải thoát này ở một mức độ cao siêu xa vời. Chúng sinh luôn bị Tam độc Tham – Sân – Si chi phối trong lòng, do đó việc niệm Phật là làm sao thoát khỏi sự ràng buộc của ba yếu tố như trong cuộc sống, ta làm ra đồng tiền, có nhiều thì tiêu nhiều, có ít thì tiêu ít, tùy vào khả năng có được mà chúng ta sử dụng hợp lý và không bị đòng tiền lôi cuốn bản thân mình vào những con đường tội lỗi khác. Ta sẽ không bị dính mắc và lệ thuôc vào nó, thì lúc này chúng ta đã thoát khỏi sự ràng buộc của tham và làm chủ bản thân mình, như vậy mới thật sự niệm Phật giải thoát ngay ở trong hiện tại này mà không tìm một sự giải thoát ở đâu xa thoát nằm ngay ở trong tâm thanh tịnh của mỗi người. Tâm của ta có sự an lạc, giải thoát tâm hồn thì ngay đó ta sống với thế giới thanh tịnh của chư Phật. Chúng sinh ai cũng có Phật tính sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp, nên không nhận ra được tự tính sáng suốt của mình. Vì vậy, việc niệm Phật giúp ta trở về bản thể thanh tịnh của chính mình. Có nhiều người cũng nghĩ rằng, niệm Phật để được Đức Phật tiếp dẫn về một thế giới nào đó. Điều này vô tình lại làm chúng ta thiếu đi niềm tin vững chắc vào khả năng tu tập của chính kinh Đức Phật dạy, ví như chúng ta trồng một cây nằm ở hướng tây thì khi gió đến, nó sẽ ngã theo chiều của hướng tây. Cũng thế, nếu như hằng ngày ta luôn vun bồi và tạo nhiều công đức lành thì kết quả an lạc sẽ đến với ta và khi mất thân này chúng ta sẽ được tái sinh vào một cảnh giới an giống như người ăn cơm nếu ăn một bát thì no theo một bát, nếu ăn nhiều thì no nhiều, nhưng tự thân họ cũng có lương thực để an lòng. Do đó, tùy vào mức độ mà ta tu tập nhiều hay ít thì tự thân sẽ được sinh vào cảnh giới thích hợp với quá trình công phu tu tập của Phật để được vãng sinhVãng sinh là sự kết thúc của cuộc đời này để sinh qua một thế giới khác, hay nói nghĩa rộng hơn, đó là cách chuyển hướng thay đổi từ cách sống này sang một lối sống như trước giờ ta sống trong sự giận hờn, buồn phiền và không làm chủ được tâm hồn. Nhưng khi hiểu được sân là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ, lúc này chúng ta liền khắc phục sai lầm và thay đổi tích cực mạnh mẽ, đó là chúng ta đã chuyển đổi từ một cuộc sống sân hận thành một cuộc sống bao dung tha thứ, và đó cũng chính là vãng giống như một người ham hút thuốc nhưng khi phát hiện mình bị bệnh nên lập tức bỏ ngay sự ham muốn ấy, có nghĩa là người này đã thay đổi từ một thói xấu chuyển thành một đức tính tốt thì đó cũng gọi là vãng vậy, không cần phải chết mới được vãng sinh mà ngay trong đời sống hiện tại ta cũng đã được vãng sinh rồi. Vì vậy, vãng sinh là sự thay đổi từ những đức tính xấu ác của con người để trở về con đường thánh thiện, từ một người với thói quen đầy sự ích kỷ, nhỏ nhen trở thành một người có tấm lòng bao dung, độ lượng và cao hơn nữa đó là từ phàm phu bước lên một bậc của thánh giả tu tập, niệm Phật cần phải thực tập và áp dụng việc niệm Phật vào trong đời sống hằng ngày để chúng ta tìm được nguồn an lạc hiện thực và luôn luôn trong thế giới của Đức Phật, đoạn dứt những phiền não để trở về bản thể thanh tịnh vốn có của mình, và đó mới là mục đích cao cả của việc niệm thêm Niệm Phật là gì? Vì sao phải niệm Phật? Điều cần biết khi niệm PhậtTrích nguồn
Kinh Phổ Môn là gì mà vào những dịp khánh hỷ, cầu an thường được các gia đình đi cầu nguyện, tụng kinh mong ước cho mưa thuận gió hoà. Ý nghĩa của loại kinh này ra sao? Nội dung như thế nào?Hãy tham khảo bài viết sau để hiểu hơn về kinh Phổ Môn. Danh Mục Nội Dung1. Kinh Phổ Môn là gì?2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn?6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà?2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn 1. Kinh Phổ Môn là gì? Là bài kinh được nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Loại kinh này được gọi với tên thông thường là kinh quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Qua bài kinh để giới thiệu “quán chiếu” cuộc đời nhằm cho chúng sinh giác ngộ, giải thoát bằng phương pháp tu tập phổ biến. Bản kinh Phổ có nguyên tắc viết bằng chữ Sanskrit. Hiện nay được dịch theo 3 bản chữ Hán như sau Bản đầu tiên của ngài Trúc Pháp Hộ có tựa đề”Quan Thế Âm Bồ tát”. Đây là tác phẩm thứ 23 nằm trong Chánh Pháp Hoa Kinh. Bản thứ 2 của ngài Cưu ma la thập dịch có tựa đề “Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm”. Tác phẩm thứ 25 trong kinh Hoa Sen Chánh Pháp. Bản thức 3 được dịch bởi ngài Xà na quật đa và Đạt ma cấp đa dịch có tựa đề “Quan Thế Âm bồ tát Phổ Môn Phẩm. Giống với tên bản dịch của ngài Cưu ma la thập. Bản nằm trong phẩm thứ 24 của Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh. Sách kinh Phổ Môn Cả ba bản dịch chỉ có bản thứ 3 là đầy đủ 2 phần văn xuôi và thi hoá phần văn xuôi. Khi bản dịch thứ 3 ra đời được người dân sử dụng đến nay. Bản dịch tiếng Việt được lấy từ bản chữ Hán của Cưu ma la thập, được giữ nguyên phần thi hoá văn xuôi. Bởi nội dung có trong phần thi hoá văn xuôi không có trong phần văn. Ngược lại, nội dung trong phần văn sẽ không có trong phần thi hoá văn xuôi. *** Tìm hiểu thêm Nghi thức khai quang điểm nhãn là gì ? Ý nghĩa của khai quang điểm nhãn 2. Ý nghĩa của kinh Phổ Môn Bài kinh Phổ Môn có tính ẩn dụ cao. Thế nên để hiểu được ý nghĩa của bài kinh cần nghiên cứu sâu sắc. Bởi đọc kinh không chỉ nhìn chữ để tụng kinh mà quan trọng là chúng ta phải hiểu được ý nghĩa bên trong. Tụng kinh không đồng nghĩa với điều ước đạt được. Bồ tát không phải là thần linh có thể cứu nguy. Do đó mà mục tiêu của việc tụng kinh không phải để cầu xin, van xin sự giúp đỡ. Cốt lõi của việc tụng kinh là cách chúng ta tu tập quán chiếu cuộc đời. Phương pháp này giúp con người khởi duyên để tự giải thoát khỏi đau khổ. Bản thân sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, thanh tịnh hơn. Ngoài ra, ý nghĩa của kinh Phổ Môn là sự bao dung, tình thương mà Bồ tát ban cho chúng ta thông qua cách thức độ sinh. Mỗi người tu tập sẽ khác nhau, dựa vào căn cơ khác nhau. Và ứng thân với các vị Bồ tát khác nhau. Kinh Phổ Môn là phương pháp giúp con người thoát khỏi bề khổ Không có vị Bồ Tát nào cứu giúp chúng ta cầu gì, ước gì sẽ được đó. Bởi luật nhân quả giống nghiệp báo. Bài kinh sẽ chỉ cho chúng ta hiểu trong cuộc đời mỗi con người có 5 loại âm thanh hiện hữu. Đó là Diệu Âm, Phạm Âm, Quán Thế Âm, Hải Triều âm và Siêu việt thế gian Âm. Đổi lại sẽ có 5 pháp quán chiều Chân Quán, Bi Quán, Từ Quán, Thanh tịnh quán và Quảng đại trí tuệ quán. Dựa vào đó mà chúng ta có thể giúp bản thân tự giải thoát chính mình ra khỏi bể khổ. Tu tập, tự cứu mình và vị tha nhân khỏi bất hạnh. 3. Nội dung chính của kinh Phổ Môn Trong bài kinh Phẩm Phổ Môn sẽ có 3 nội dung chính như sau Thần lực trì danh Quan Âm. Cứu thế độ sinh qua 33 ứng thân. Phương pháp ngũ âm, ngũ quán. Nội dung của kinh Phổ Môn đầu tiên là giới thiệu sự tương giao trong nhân quả. Giữa Quan thế Âm bồ tát với chúng sinh. Quan Thế Âm là người ban niềm vui cho con người. Là điểm tựa, nuôi dưỡng trí tuệ, tu thân tích đức, nỗ lực trở thành người thánh đức. 4. Khoá lễ tụng kinh Phổ Môn Khoá tụng kinh Phổ Môn được chia thành 3 phần bao gồm Phần đầu tiên Nghi thức dẫn nhập có 5 tiết mục là nguyện hương, tán hương, đảnh lễ ba ngôi báu, phát nguyện trì kinh, tán dương giáo pháp. Phần 2 Chính kinh. Giới thiệu hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát Quan Thế Âm. Phần 3 Sám nguyện và hồi hướng. Ban đều sẽ học bài Bát Nhã Tâm Kinh. Bài học giúp người tụng kinh độc diệt từ tất cả các đau khổ trong cuộc đời. Phương pháp được áp dụng ở phần này là quán chiếu năm yếu tố để hình thành con người. Khi kể đến 12 lời nguyện Bồ Tát Quan Thế Âm giúp người học tu học hiểu về bản nguyện cứu thế độ sinh. *** Tìm hiểu thêm Linh thú cát tường là gì? Cách chọn linh thú phù hợp theo tuổi và mệnh 5. Khi nào nên tụng kinh Phổ Môn? Người ta thường đi tụng kinh Phổ Môn vào các dịp chủ yếu như Cầu an. Cầu quốc thái dân an. Cầu khỏi bệnh. Cầu tai qua nạn khỏi. Cầu gia đạo bình an. Cầu mưa thuận gió hoà. Hoặc có thể tụng kinh Phổ Môn vào các dịp khác như Khánh hỷ. Lễ khai trường. Lễ khởi công. Lễ an vị Phật. Lễ mừng thọ, chúc thọ. Lễ đáo tuế. Lễ sinh nhật. Đây đều là những dịp đặc biệt trong đời sống con người. Có vai trò quan trọng giúp đời sống đi lên, phát triển hơn. 6. Cách trì tụng kinh Phổ Môn Bồ Tát Quan Thế Âm khởi đại nguyện cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Nên khi gặp khổ nạn con người thường xưng niệm danh hiệu ngài nhằm cầu mong sự an ổn. Sự tương giao giữa 2 tâm thức giúp chúng sinh đạt được sự an ổn. Để tụng kinh Phổ Môn đúng cách và hiệu quả cần lưu ý những điều sau 1. Tụng kinh Phổ Môn nên làm ở chùa hay ở nhà? Nếu như gia đình bạn có bàn thờ Phật ở nhà có thể thực hiện việc cầu an tại gia là tốt nhất. Trường hợp nơi ở chật hẹp, ồn ào, điều kiện không cho phép có thể tiến hành cầu an ở chùa. Dù là cầu an ở nhà hay ở chùa đều phải chuẩn bị thật chu đáo, trang nghiêm. Những vật cần thiết trong lễ cầu an phải có như hoa quả, hương đèn,… Chúng ta dâng cúng những gì, tốt hay xấu, nhiều hay ít,.. không quan trọng. Mà điều cốt yếu là mọi thứ từ chí thành, nghiêm cẩn trong khả năng cho phép. Bản Kinh Phổ Môn bán chạy trên thị trường 2. Chuẩn bị gì trước khi tụng kinh Phổ Môn? Để đạt hiệu quả thành công, trước khi tụng kinh Phổ Môn cần lau dọn, bày bàn thờ Phật trang nghiêm, sạch sẽ. Tốt nhất nên tự mình làm không sai bảo người khác. Trừ trường hợp những người tham gia chuẩn bị có tâm nguyện cầu an, là con cái trong gia đình. Sau đó, gia chủ đứng trước bàn thờ Phật chí thành lễ bái. Lúc này nghi thức cầu an chính thức bắt đầu. Tụng phẩm kinh Phổ Môn được trình bày rõ ràng, nghi thức trang nghiêm. 3. Những lưu ý khi tụng kinh Phổ Môn Để buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra thành công, đạt hiệu quả cao thì gia chủ cần lưu ý các điều sau Có thể tụng kinh theo bản dịch tiếng Việt để tạo hiệu quả tốt, hiểu được ý nghĩa của từng câu kinh. Cần tập trung hết sức, suy ngẫm về ý nghĩa của các câu kinh, tiếng kệ. Điều này giúp chúng ta hòa quyện với không khí trang nghiêm buổi tụng kinh. Từ đó thấm đẫm được ý nghĩa các câu kinh trong tâm trí. Chuẩn bị mọi thứ thật đầy đủ, cẩn thận, ăn mặc trang nghiêm. *** Tìm hiểu thêm Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân là gì? Đặc điểm của Ấn Thiền, ấn Chuyển Pháp Luân Với các lưu ý trên giúp buổi tụng kinh Phổ Môn diễn ra theo đúng mong muốn, đạt hiệu quả cao. Qua những chia sẻ trên bạn hiểu được kinh Phổ Môn là gì? Đồng thời biết được ý nghĩa và nội dung của bài kinh này. Từ đó vận dụng một cách khoa học.
trì tụng là gì